TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Lịch sử văn hóa Trung Hoa I
 
Lên mạng ngày 12/2/2011

LỊCH SỬ VĂN HÓA TRUNG QUỐC

GS Tôn Thất Trình


Cập nhật thêm về “lịch sử văn hóa Trung Quốc” theo cách nhìn của sử gia Hoa kỳ  ngày nay, kể từ khi nhà Thanh sụp đổ đến năm 2005:
            

                                   I - Dẫn nhập

 
             Hiểu biết về Trung Quốc ở Hoa Kỳ sau Thế Chiến Thứ Hai đã  tiến triễn mạnh , nhờ nhiều  môn học về Trung Quốc đã được giảng dạy ở các viện , trường Hoa Kỳ,  nhiều người dân Hoa kỳ đã sinh sống hay  thăm viếng Trung Quốc và nhiều sinh viên đã lựa chọn học ngôn ngữ Tàu.  Thành quả là dân Mỹ đã   hiểu biết Trung Quốc từ những nguồn trực tiếp và có tầm nhìn Trung Quốc từ bên trong. Cho nên  tầm nhìn Hoa Kỳ  trở thành khách quan và cân bằng hơn. Không còn khuôn sáo là  dân Tàu  không chút nào tôn trọng đời sống , không chút nào giữ phẩm cách cho cá nhân, và Trung Quốc luôn luôn lạc  hậu về khoa học, ngôn ngữ Tàu không hề có  ngữ pháp , không có từ ( ngữ ) cho cái này  cái kia, gia đình Tàu luôn luôn thuận hòa, lời nói Tàu là vàng ngọc  v.v…Thế nhưng  hiểu biết thật sự  về Trung Quốc không những phải bỏ đi mọi khuôn sáo  cũ và phải  khách quan và cân bằng. Hiểu biết căn bản lịch sử và văn hóa Tàu là căn bản, vì tựu trung Trung Quốc là  một quốc gia lịch sử và văn hóa. Thật sự Trung Quốc không phải là  một quốc gia xưa cũ lâu đời nhất thế giới, mà là  một quốc gia có  lịch sử ghi chép  dài  dẳng, ghi đầy đủ, dân Tàu  luôn luôn nhìn lại. Rất ít  khía cạnh Trung Quốc có thể tách rời khỏi lịch sử Tàu. Trên hệ tư tưởng, Trung Quốc đã làm một cái nhảy lộn vòng hoàn toàn  vào năm 1949. Thế nhưng cơ cấu  chánh trị ở  tỉnh ( đúng hơn tỉnh Tàu là một quốc gia như Việt Nam , Nhật , Triều Tiên - Nam Bắc Cao Ly , Thái Lan , Miến điện…   và ở quận - phủ ( đúng hơn nên xem là tỉnh ở Việt Nam ) đã xưa cũ 2000 năm rồi. Chẳng hạn,  khi một dân Tàu nào nói đến  tình thân hửu , họ luôn luôn kể  lời khuyên bảo của Khổng Tử- Confucius  thuộc  thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên - B.C.  Dân Tàu luôn luôn nhìn lui về lịch sử , không vì lẽ là họ lạc hậu hay bảo thủ . Họ làm như vậy để có  chứng cớ cụ thể và kinh nghiệm quá khứ . Không  khác gì  mấy hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, luôn luôn nhấn mạnh đến tiền lệ - precedents  hầu trình bày rỏ tại sao  vài quyết định đã được thiết lập . Chi tiết đời sống  ở thiên niên kỷ - millennium  trước Công nguyên, đàm thoại  của thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên   và  thư từ  thế kỷ thứ  nhất sau Công nguyên v.v…đã được bảo tồn và  hàng ngàn, hàng vạn  từ điển địa danh -  gazetteers  địa phương về các điều kiện  địa phương ,đã được các  phủ quận  đăng tải, từ nhiều thế kỷ. Trung bình một gia đình Tàu  có gia phả  ghi chép trở lui ít nhất đã 800 năm qua, ngoài những ghi chép cỗ truyền  có lẽ đã  hơn ngàn năm qua . Vì thế cho nên không có một khía cạnh nào của Trung Quốc mà lại có thể thực sự đánh giá đúng, ngoài  ngữ cảnh lịch sử  lâu dài của Trung Quốc. Cũng cần thiết như lịch sử là nghiên cứu văn hóa Tàu . Vì rằng, Trung Quốc đã in sách  nhiều thế kỷ trước Gutenberg in Thánh kinh,  vì  họa phong cảnh cũng đã trổi dậy  dưới hình thức một nghệ thuật điêu luyện hàng trăm năm trước Âu Châu , rất nhiều dân Tây Phương có ý niệm là văn hóa Tàu  đã xưa cổ  và cao hơn hẳn  đa số các văn hóa khác và nhiều dân Tàu đương nhiên công nhận điều này. Thật ra văn hóa Trung Quốc  yếu kém trên nhiều thành phần văn hóa , tỉ như  giai điệu hài hòa - harmony ở âm nhạc  và văn hóa Tàu cũng không cỗ xưa bao nhiêu cả. Điều có thể nói là văn hóa Tàu trưởng thành mau lẹ, các cơ chế chánh trị và quan niệm,  tổ chức xã hội, thái độ và thực thi tôn giáo  đạt  nhiều cao đỉnh  từ 2000 năm nay ( theo Wing - Tsit Chan,  Phó Giáo sư về Tư Tưởng Tàu , Viện đại học Columbia, Hoa Kỳ,  năm 2005 ). Sách hai giáo sư   sử học W. Walton Scott Morton viện đại học Seton Hall University , bang New Jersey và Charlton  M. Lewis, viện Đai học New School University, bang New York Trung Quốc : Lịch sử và Văn hóa Trung Quốc- China : Its History and Culture , tái bản lần thứ 4 năm 2005, tuy viết  chia ra  18 chương, chỉ được trình bày ở đây từ chương 12 đến chương thứ 18, sau đời nhà Thanh- Qing Dynasty( 1644-1911 ) vua Tàu nguồn gốc Mãn  Châu - Manzhou  mất ngôi báu . Để tiết l kiệm thì giờ độc giả  và vì rối loạn, biến chuyễn trong thời  gian sau nhà Thanh sụp đổ,  ở Việt Nam và ở Trung Quốc , khiến cho  cả hai nước  khó lòng giữ tính cách khách quan, cân bằng cần thiết , khi luận cứ sử hay văn hóa .  
           
                I-1)  Đất nước Trung Quốc vào năm 2005 .
                  
Trung Quốc  rộng 3, 705,000 dặm Anh vuông - square miles( 9,596, 000 km2 ), gần bằng diện tích toàn thể Hoa Kỳ. Diện tích cả hai  nước đều nhỏ hơn Nga và Canada. Quảng Châu- Guangzhou ( Can ton  ) , thủ phủ tỉnh Quảng Đông -Guangdong( Kwangtung ) ở  vòng đai nhiệt đới; trong khi đó  cách 2300 dặm Anh ( hơn 3700 km ) đến tận phía Bắc Mãn Châu , lại nằm vào 13 độ vĩ tuyến  độ 13  từ  Vòng Bắc Cực - Artic Circle  , có nhiệt  độ  40 độ F dưới zêrô ( - 25,6 độ C) mùa đông .Trung Quốc quá lớn rộng  và khác biệt các miền vùng cũng quá to lớn , khiến  trong thời  gian lịch sữ , Trung Quốc dễ dàng phân chia  vĩnh viễn thành những quốc gia khác nhau, như Âu Châu  đã phân chia sau khi Đế quốc La Mã suy tàn.  Điều gì đã ngăn ngừa  phân tán  Trung Quốc là  một hệ thống thư lại ổn định , rất uy vũ, là người bảo vệ một bản gốc chung và một  nền văn hóa chung cao giá.  Trung Quốc có biên cương sát ngay  mọi quốc gia chánh ở Á Châu, ngoại trừ Tây Á  ( Trung Đông và Cận Đông ).  Dù cho có sự kiện này, suốt lịch sử mình, Trung Quốc tương đối cô lập  nhờ các  rào cản địa lý. Thái bình Dương  rộng mênh mông phía Đông, những hẻm núi  không qua nổi  phía biên giới với Myanmar ( Miến Điện- Burma )  và Cao nguyên Tây Tạng - Tibet cằn cỗi không ở được  phía Nam và phía Tây và lảnh thổ ít người sinh sống, khô hạn  Mông Cỗ và Trung Á- Central Asia    phía Tây Bắc và  phía Bắc, giúp Trung Quốc trung bình  ít liên lạc hơn với các nền văn minh khác và để  phát triễn lối sống riêng mình  một cách cô lập , cách ly tương đối. Tuy nhiên  vẫn  xảy ra những liên lạc như với Ấn Độ  qua hành lang Tây Bắc, tỉ như   các con đường thương mãi  thời Phật giáo đang đến Trung Quốc; với thế giới Ả Rập  theo đường biển qua Quảng Châu; với Đông Nam Á bằng thương mãi đường biển thường xuyên; với Tây Phương  nhỏ giọt xuyên qua Trung Á và sau đó thác lũ bằng  các đường biển thế giới. Khuynh hướng các  nhà học giả hiện thời là  nhấn mạnh đến các giao liên  với ngoại quốc , đăc biệt vào thời tiền sử hay các thời kỳ có sử đầu tiên, nhưng  các sự kiện chủ yếu, đã được công nhận lâu ngày và  cũng còn đúng sự thật  là Trung Quốc đã phát triễn  văn hóa riêng mình từ  thuở ban đầu  theo phương cách Tàu; rất ít ảnh hưởng ngoại quốc  và đó chính là nhờ những thừa tố địa lý.
            
                  I-2 )   Lảnh thổ

 
               Lảnh thổ Trung Quốc thấp dần từ Tây sang Đông  , từ các núi non Tây Tạng , vài núi cao hơn  4 dặm Anh ( trên 6.400 m ) đến bờ biển Thái Bình Dương. Đa số lảnh thổ là núi, đồi. Các đồng bằng thực sự  tìm thấy là ở  Mãn Châu,  ở một vùng rộng lớn miền Bắc Trung Quốc, hệ thống sông Dương Tử -  Yangzi và ở thung lũng Tứ Xuyên -  Sichuan.  Tất cả mọi sông đều chảy về Thái Bình Dương, ngoại trừ sông Hoài - Huai ở đồng bằng  Bắc Trung Quốc, chảy vào  một hệ thống hồ nội địa, không chảy ra biển.
                Có 5 sông chánh:  sông Sungari  ở Bắc Mãn Châu , chỉ lưu thông được 6 tháng một năm, sông Liêu - Liao ở Nam Mãn Châu, sông Hoàng hà - Yellow River ở Bắc Trung Quốc, sông Dương tử  ở miền Trung và sông Tây Giang - West River , chảy qua Quảng Châu- Canton.  Sông Hoàng Hà dài 2700 dặm Anh ( trên 4300 km ), phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng  chảy về Đông qua các hẻm núi - gorges , hướng về Bắc rồi quay đầu về Nam , làm một vòng thòng lọng  lớn quanh  Sa Mạc Ordos , và mau lẹ một lần nữa về hướng Đông. Sau điểm này, Hoàng Hà thay đổi dòng chảy nhiều lần ở hạ nguồn  tại miền Bắc và  phía Nam bán đảo Sơn Đông -  Shangdong,  kéo theo nhiều tai ương tàn phá .  Nay thì Hoàng Hà  chảy về các núi non  phía Bắc Sơn Đông đổ ra một vịnh  tên là Bố Hải - Bo Hai . Hoàng Hà đã có tên là “  Trung Quốc Buồn Thảm  - China ‘s Sorrow :  vì trong lịch sử nó có nhiều cơn lụt tang tóc, đau thương .  Đất đai miền  Bắc Tàu, tên gọi là loess,  sông mang theo ở thể lơ lững,  trầm tích lớn lao  đến nổi mức  bờ sông cao hơn  đất đai quanh sông rất nhiều.  Khi bờ sông hay đê vỡ  nước lũ tàn ra xa, gây nhiều thảm khốc . Phần lớn dòng chảy sông Hoàng Hà không lưu thông được, ngoại trừ  bằng các  tàu bè nhỏ địa phương. Ngược lại sông Dương Tử, sông lớn nhất Trung Quốc, dài  3200 dặm Anh ( trên 5000 Km ), đứng hàng thứ 6 trên thế giới, lưu thông được  khoảng một ngàn dặm Anh ( 1600 km ) từ biển đến Hán Khẩu- Hankou cho các tàu lớn chạy hơi nước  suốt năm. Tàu viễn duyên trọng tải 10 000 tấn, có thể cặp bến Hán Khẩu mùa hạ khi  con nước cao và  các tàu nhỏ hơn có thể chạy xa hơn, 600 dặm Anh ( trên 960 Km ) phía trên Hán Khẩu. Trung Quốc đã làm xong đập Núi Hẻm Tam Điệp-Three Gorges Dam phía trên Yichang- Nghị Tràng (? ), tạo ra một hồ lớn  giúp các tàu lớn  tiến thêm lên phía thượng nguồn đến thành phố Trùng Khánh- ChongQing.
       Các dãy hay cụm núi hình dạng và  chiều hướng có phần mơ hồ, nhưng dãy núi quan trọng nhất là  Khâm Lĩnh ( ? ) - Qinling  vươn dài phía đông từ hệ thống lớn Côn Lôn- Kun Lun Bắc Tây Tạng.  Dãy Khâm Lĩnh chia đôi Nam- Bắc  Trung Quốc, sản xuất ra vô số  khác biệt giữa hai miền Nam và miền Bắc , thành những đặc điểm xã hội và chánh trị  riêng rẽ của lịch sử Trung Quốc . Miền Bắc khô hạn,  lạnh lẽo, gió sa mạc thổi mùa đông . Miền Nam  có khí hậu ẩm ướt của  gió mùa Đông Nam mùa hè. Nông dân đồng bằng miền Bắc sản xuất kê - millet , cao lương -gao liang ( hay mễ cốc cao lớn - tall grain một loại kê )  và lúa mì - wheat. Nông dân  thung lũng đồi núi miền Nam trồng lúa gạo,  trà ( chè ), dâu nuôi tằm và tre trúc .  Mùa trồng trọt miền Bắc kéo dài  4 đến 6 tháng, chỉ trồng một mùa, tuy vài nơi có thể làm hai mùa vụ. Miền Nam có thể trồng trọt  từ 9 tháng đến suốt năm , nên có thể sản xuất  hai, có khi ba mùa vụ một năm.  Nông dân miền Bắc có khuynh hướng ở lại nhà ; trong khi  rất nhiều dân  miền Nam là ngư phủ hay buôn bán  và nhiều người đã  rời xứ sở  ra đi viễn dương. Khi ai đó gặp một người Tàu ở New York , London, Brussels, hay Kua Lumpur , nhiều cơ hội đó là  dân Tàu hay gia đình Tàu quê quán  miền Nam Trung Quốc.

 
                I-3) Dân Tàu
            
            Xã hội Tàu trước đây  thường chủ yếu  là dân nông thôn hơn là dân thành thị và đến năm 2004 có lẽ 75 % dân chúng vẫn còn  sinh sống ở đồng quê, tại làng xã hay thị trấn nhỏ ( hình như năm2009 , con số này đã trụt xuống ở khoảng 40% ).  Chánh phủ  Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc -People’s Republic  of China, viết tắt là PRC hiện tại  đã dựa vào sự kiện này phân tán  công nghệ, cố gắng hòa lẫn  công nghệ với làng xã nông thôn. Một chương trình rộng lớn trồng lại rừng - afforestation đã được thực hiện những năm gần đây để chống trả vấn đề xói mòn đất đai quan trọng. Vấn đề mất rừng đã hiện diện từ nhiều thế kỷ qua, đặc biệt ở miền Bắc vì cần gỗ để xây cất, nấu nướng và sưởi ấm mà không trồng lại cây mộc.  Ngay cả tại miềnNam,  thảo mộc phong phú hơn, nhiều sườn dốc  đã bị xói lỡ nặng nề,  vì rễ cây mùa màng bị đào bới lên hết làm củi đốt .
             Thật khó tính cho đúng dân số Trung Quốc, dù rằng Trung Quốc đã có một hệ thống thư lại phức tạp từ lâu rồi. Vì các con số dân cư tính ra có mục đích đánh thuế, cho nên có nhiều dụ dỗ khai gian. Đôi khi  con trai dưới 1 tuổi và con gái dưới 5 tuổi  không khai. Khác biệt chánh xảy ra ở những vùng xa xôi như Tây Tạng và Ngoại Mông ,khi  nhập khi không vào thống kê      chánh thức.  Tuy nhiên kiểm tra- census ở Trung Quốc  qua nhiều thế kỷ  đã tỏ ra chính xác hơn  tại đa số các quốc gia. Các tộc dân theo truyền thống được công nhận gồm 5 nhóm : Hán - Tàu  , Hồi - Hui hay Đạo Hồi - Muslims

 

Năm        
Tổng số ( triệu người )        
Sau Công Nguyên -A.D.                     1                
57
1712
120
1900             
440
1926              
485
1953            
593 ( kiểm tra của PRC )
1975     
gần 800  ( ước lượng )
Giữa   1979     
gần 960 ( kiểm tra của PRC ) 
2003
1290 (1.29 tỉ)
                   
           Dân Tàu thuộc  giống nòi  loại Mông Cỗ , một nhóm gồm luôn cả Triều Tiên ( Cao Ly , Đại Hàn ) , Nhật , Mông Cỗ, Eskimos,  và vài cư dân gốc địa phương Hoa Kỳ - native Americans . Loại này  có đặc điểm là da chỉ hơi vàng vàng, mặt tương đối dẹp , xương gò má cao, mắt màu hạnh nhân thâm sậm, và tóc đen. Trong loại này có rất nhiều biến thiên  giữa dân Tàu miền Bắc và dân Tàu miền Nam.  Dân miền Bắc cao lớn hơn  gần 6cm theo trung bình, da dẽ hồng hào, ít vàng hơn, mắt ít giống dạng hạnh nhân, đầu to theo tỉ lệ với thân thể hơn là dân miền Nam.

 
                Ẩm thực Tàu ( ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật , ở nhà Tây - Pháp …, theo cách ngôn Việt Nam )đã  cao giá từ thời xa xưa và  khác biệt theo vùng cũng rất rỏ rệt. Tục ngữ Tàu nhấn mạnh đến mùi vị ngọt các món ăn miền Nam,  thích muối mặn ở miền Bắc, mùi vị chua hay như dấm ở miền Đông, và nồng cay ở miền Tây.  Mùi vị cay nồng miềnTây Trung Quốc  đã lan tràn ở New York và nhiều thị trấn khác: thực đơn  các tiệm ăn Tứ Xuyên  in mực đỏ tên  đĩa thật cay và in mực đen các món không cay , giúp thực khách không quen ăn cay  lựa món ăn khỏi cháy lưỡi.  “Đại Khách Sạn”  ở Đài Bắc ( Đài Loan ) năm 1959- 60 còn dọn đủ  mỗi bửa ăn thực đơn đặc sắc của 21 - 22 tỉnh Trung Quốc .
         Tuy nhiên  khác biệt  chánh các miền -vùng là biến thiên phát âm  tiếng nói, ngôn ngữ địa phương - dialects. Chữ viết giống nhau, mọi học giả đều đọc được, nhưng cách phát âm tiếng nói khác hẳn nhau,  đến nổi tiếng nói hai dân địa phương, chẳng hạn  Bắc Bình và Quảng Châu  không hiểu gì nhau hết !  Chính địa lý  đã phần lớn đóng vai trò làm trổi dậy tiếng nói địa phương. Tiếng nói  chánh thức và của triều đình cũ ở Bắc Bình , trong quá khứ tên là Quan Thoại - Mandarin , nay là  quốc ngữ - national language, đã được sử dụng  suốt khắp đồng bằng lớn miền Bắc, nơi giao thông tương đối có phần tiện lợi hơn.  Quan Thoại cũng được sử dụng ở Tây Nam.  Nhưng vì địa thế núi non hiểm trở miền Nam  Trung Quốc  đã sinh ra  nhiều tiếng nói địa phương.  Lưu thông xuống hạ nguồn ra biển, cũng dễ dàng hơn  là qua các dãy núi cao sừng sửng, đến các làng mạc  lạ lùng thung lũng kế tiếp, chỉ cách nhau vài dặm Anh. Làm nẩy sinh nhiều  ngôn ngữ khác nhau  theo những hướng ngôn ngữ học  khác biệt  và theo những tỉ xuất biến đổi  tại các cộng đồng cô lập. Riêng tỉnh Phúc Kiến - Fujian ( Fukien ) đã đếm được  108 ngôn ngữ địa phương.  Giáo dục cận đại lan tràn ở PRC và ở Đài Loan đã đưa tới việc sử dụng gần như phổ cập, tiếng nói ngôn ngữ quốc gia- quốc ngữ , trên đa số dân chúng Tàu ở cả hai khu vực.  Việc này, may mắn thay, có thể bảo đảm một di sản chung cho mọi dân Tàu trong tương lai .  Đính kèm bản đồ Trung Quốc năm 2005,  trước khi Trung Quốc ghi hình lưỡi bò ở Biễn Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
                      Sau đây là tên các tỉnh và các đô thị Trung Quốc( theo  Pinyin, Wade- Giles và Hán Việt ), gần như từ Bắc xuống Nam có đề cập ở sách  Morton và Lewis :

 
Tỉnh
                Đô thị
Pinyin             
Wade- Giles          
Hán Việt       
Pinyin      
Wade-Giles      
Hán Việt
Heilongjiang 
Heilungchiang 
Hắc Long Giang 
Harbin       
Harpin          
Cáp Nhĩ Tân
Jilin               
Kirin                 
Cát Lâm             
Jinlin         
Kirin              
Cát Lâm
Liaoning      
Liaoning            
Liêu Ninh         
Changchun
Ch’angch’un 
Tràng Xuân
Hebei           
Hopei, Hopeh     
Hà Bắc       
Shenyang  
Shenyang Mukden
  Thẩm Dương
Shandong
Shantung            
    Sơn Đông   
Shanxi         
Shanxi                 
Sơn Tây             
Anshan         
Anshan           
An Sơn
Shaanxi        
Shensi                
Thiểm Tây     
Tangshan     
T’angshan           
Đường Sơn
Gansu           
Kansu                 
Cam Túc          
Luda         
Dalien,Dairen 
Lữ Đại,Đại Liên
Qinghai        
Ch’inghai           
Thanh Hải      
Henan          
Honan                 
Hà Nam            
Beijing       
Peking, Peiping      
Bắc Kinh
Anhui            
Anhwei              
An Huy             
Tiangjin      
Tientsin             
Thiên Tân                         
Jiangsu        
Kiangsu              
Giang Tô            
Taiyuan       
T’aiyuan        
Thái Nguyên
Sichuan      
Szech’uan            
Tứ Xuyên             
Jinan           
Tsinan               
Tế Nam
Hubei      
Hupei, Hupeh         
Hồ Bắc                 
Qingdao      
Tsingtao        
Thanh Đảo
Zhejiang     
Chekiang         
Chiết- Triết Giang   
Lanzhou        
Lanchou        
Lan Châu
Guizhou   
Kweichou- chow 
Qúy Châu               
Kaifeng      
K’ai feng          
Khai Phong
Hunan          
Hunan              
Hồ Nam                 
Sian        
Hsian,Ch’angan    
Tây An
Jiangxi        
Kiangsi               
Giang Tây              
Luoyang      
Loyang          
Lạc Dương
Fujian          
Fukien                
Phúc Kiến             
Nanjing        
Nanking        
Nam Kinh
Yunnan       
Yunnan              
Vân Nam               
Shanghai     
Shanghai        
Thượng Hải
Guangxi
Kwangxi Zhuang 
Quảng Tây-Tráng 
Hangzhou    
Hangchow     
Hàng Châu
nay  Guangxi
Zuang zhizhiqu      
Tự trị khu
Guangdong 
Kwangtung           
Quảng Đông   
Wu han 
Wu hanHankou  
Vũ Hán Hán khẩu
Chendu       
Ch’engtu      
Thành Đô
-
-
-
Chongqing  
Chungking     
Trùng Khánh
-
-
-
Changsha   
Ch’angsha      
Tràng Sa
-
-
-
Nanchang   
Nanch’ang      
Nam Xương
-
--
-
Fuzhou     
Foochow         
Phúc Châu
-
-
-
Kunming  
K’unming       
Côn Minh
-
-
-
Xiamen  
Amoy, Hsiamen  
Hạ Môn
-
-
-
Guangzhou   
Canton       
Quảng Châu
-
-
-
Xianggang   
Hongkong   
Hồng Kông
-
-
=
Aumen          
Macao          
Áo môn        
 

 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 780392 visitors (2069640 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free