TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Dưa hoàng kim - melon
 
Lên mạng ngày 26/9/2010

Câp nhật về những giống dưa gang tây , mơ lông vỏ láng , mơ lông rỗ căn ta lúp cúng kỵ và xuất khẩu, đặc biệt ở vùng cao trồng xen kẻ dưới tán các loài rụng lá mùa đông ( ? ) :
Dưa hoàng kim, mơ lông, mơ lông rỗ thay dưa gang xưa cũ ?
G S Tôn Thất Trình

Tháng tư năm 1998, chúng tôi đã đề cập đến một vài loài này ở số 777, tuần báo Khoa Học phổ thông Sài Gòn. Nay có lẽ cũng nên cập nhật hiểu biết sinh thái về các loài mới , giống mới , giống lai nên phổ biến nhiều thêm ở nước nhà , đặc biệt trồng xen kẻ trên cây ăn trái lâu năm vùng cao, để xuất khẩu đến những xứ mùa đông dài và lạnh lẽo ( Trung Quốc , Hàn Quốc , Nhật Bổn , Nga , Đông Âu , Trung Đông v.v… hay cúng kỵ lễ lạc  thành  một trong 5 trái đẹp đẽ mâm “ngũ quả” truyền thống .
                  Đôi chút thực vật học
Việt Nam hay quanh Việt Nam theo giáo sư Phạm hoàng Hộ chỉ có trồng một giống tên Âu Mỹ là mơ lông - melon , gọi là dưa gang Cucumis sativus var conomon (Thumb .) Mak , một loại dây bò   ra trái vỏ màu xám vàng vàng dài 20-30 cm , thịt ( nạc ) - ruột màu trắng và hột cũng trắng. Dưa hấu tên khoa học là Citrullus lanatus ( Thunb. ) Mak & Nak.   Âu Mỹ cũng gọi là mơ lông nước - water melon, tuy Trung Quốc và Việt Nam đều cho là nguồn gốc quốc gia mình ( sự tích dưa hấu An Tiêm ), các nhà thực vật học lại cho là du nhập từ Phi Châu.  Giống dưa hấu ngọt trái nhỏ Sugar Baby,  vỏ trái tròn xanh đen du nhập từ Hoa Kỳ ttrong các thập niên 1960-70 có lúc thịnh hành cúng kỵ , một thành phần ngũ quả ở miền Nam. Dưa hấu không hột lai tam nhiễm - triploid từ giữa các hàng nhị nhiểm -diploidtứ nhiễm -tetraploid, nay đã bị thay thế bằng các giống lai- hybrids  không hột cao năng , ngọt hơn , trái có khi rất to trên cả 100 kg. Mới đây còn xuất hiện dưa hấu vuông vức nữa, thay vì tròn hay bầu dục … Ở bài này, chúng tôi giới hạn vào các loài giống mơ lông - dưa gang tây , nên thay thế hẳn loài dưa gang ta, đôi khi trồng khắp nước, nhưng không cải thiện tuyễn chọn gì cả .
Mơ lông - dưa gang tây là một   trong những dây bò dài hàng niên thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae . Theo G S Phạm Hoàng Hộ, ở Việt Nam gồm 46 loài - species , thuộc 23 tông- genera, du nhập hay mọc tại địa phương, như dưa gang ta đã nói trên, dưa chuột( dưa leo , cucumber) Cucumis sativa L. ; mướp tây ( mướp hổ, snake gourd) Trichosanthes anguina L , nguồn gốc Ấn độ và 8 loài bà con tông Trichosanthes  mọc hoang ở núi rừng núi; các loài mướp ( mướp khía , mướp hương … ) tông Luffa ( angulata, cylindrical , aegyptiaca …;mướp đắng - khổ qua Momordica charantia L.; bầu Lagenaria siceraria Sadley , nguồn gốc Phi Châu; bí đao ( white gourd, Chinese melon ) Benincasia hispida Cogn, có thể nguồn gốc Việt Nam, hay Vân Nam - Trung Quốc;bí rợ Cucurbita maxima Duch. ex Lam ; bí đỏ C. pepo L; bí ngô C. moschata Duch ex Lam , cả ba loài bí này đều nguồn gốc Nam Mỹ Châu v.v… Loài bầu bí miền Bắc lại được định danh khoa học ở miền Nam Momordica cochinchinensis ( Lour. ) Spreng. là “gấc “ , dùng nấu xôi gấc lễ cưới là một dây bò đa niên, phân tính khác gốc - biệt dục . Tuy giá trái gấc rẽ , nhưng nay thường bị nhiều chất nhuộm nhân tạo thay thế màu đỏ xôi .                        
Mơ lông tây thường có lá rộng ,thân bò phủ đầy gai nhỏ và hoa nhỏ màu vàng.Trái có thịt ( ruột, nạc ) mềm giữa trái là một lỗ hổng đựng hột, trái phía ngoài có vỏ dày che chở . Có hai nhóm mơ lông là dưa hấu- dưa nước - water melonsdưa mơ lông ( dưa gang tây ) xạ hương, hương thơm- muskmelons . Nhóm dưa hấu chỉ gồm các giống dưa hấu. Nhóm dưa gang tây - mơ lông xạ hương gồm tất cả mọi loài giống mơ lông khác, kể cả mơ lông mật sương - honeydew melons , dưa hoàng kim. Âu Mỹ chia nhóm mơ lông xạ hương ra làm 2 nhóm phụ : nhóm phụ vỏ trơn tru - smooth skin và nhóm phụ da rỗ - netted skin. Mơ lông mật sương honeydew là nhóm vỏ trơn tru. Ở Hoa Kỳ hay Anh Quốc mơ lông xạ hương thu hoạch điển hình vào cuối mùa hè hay vào đầu mùa thu. Dưa gang tây hay mơ lông trên thế giới chia ra rất nhiều loại khác biệt : mật sương- honeydew , căng ta lúp - cantaloupe, charentais , galia , piel de sapo … và dưa hấu - watermelon.
Còn căn ta lúp   thì chia ra 2 loại : căn ta lúp thực sự - true cantaloupe Cucumis melo var cantalupensiscăng ta lúp Mỹ châu - American cantaloupe Cucumis melo var reticulatus. Khác biệt thực vật này đang còn trong vòng tranh cải. Căng ta lúp Mỹ có thể là một loài mơ lông xa hương - muskmelon,vỏ xám xanh có lằn rỗ xám. Căng ta lúp thực sự trông tưạ như căng ta lúp Mỹ , nhưng chỉ tìm thấy ở Âu Châu. Ở Úc Châu và Tân Tây Lan - New Zealand , căng ta lúp có tên là mơ lông đá - rock melons ,vì vỏ rỗ cứng như đá. Thịt căng ta lúp thường màu cam. Nhưng cũng có giống thịt màu đỏ hay vàng nhiều hay ít, ít trồng hơn và cũng ít ngon hơn là các giống thịt vàng cam . 
Khi nào biết là trái căng ta lúp đã chín ? khi trái đã nặng cân so với kích thước và rất thơm. Cuối thân bò ( cuối cuốn ) phải hơi mềm. Nếu không, phải để ở phòng nhiệt độ bình thường vài ngày cho trái chín đầy đủ. Còn mơ lông sẽ chín thêm khi hái trái khỏi dây bò, miễn là chúng đã trưởng thành đủ khi hái, và có thể cho chín , trong một tô - bát lớn đựng trái cây với chuối. Mơ lông mật sương phải tồn trữ hoặc ở phòng có nhiệt độ bình thường, hoặc ở tủ lạnh. Nhưng trước khi ăn, phải đem ra phòng nhiêt độ bình thường cho mùi vị thơm ngon nhất. Nếu bạn cắt ( bổ ) đôi trái, nữa trái kia sẽ tồn trữ tốt ở tủ lạnh 3 ngày. Nhưng bọc nữa trái này cẩn thận ,vì mơ lông thơm phức và hương thơm này sẽ xông qua các thực phẩm khác.
                     Đôi chút lịch sử
Nguồn gốc mơ lông thật khó xác định , vì có người cho chúng xuất phát từ Phi Châu , có người lại bảo là Trung Âu. Cũng thật là khó khăn xác định nơi nào chúng được trồng đầu tiên làm thực phẩm , vì chưng   hột mơ lông rất giống hột dưa chuột ( dưa leo ) và cũng khó lòng phân chia hột ở các đất đào khảo cỗ .  . Xác định chúng trước nhất là ở Ấn Độ khoảng 2000 trước công nguyên ( BC ) và ở Ai Cập khoảng 2400 BC. Tuy nhiên , không thể nào phân biệt nổi là loại mơ lông nào hiện diện lúc đó . Hầu như chắc chắn là lúc đó mơ lông trồng không giống tí nào với mơ lông thơm ngọt chúng ta ăn ngày nay. Có lẽ chúng giống những trái dưa chuột hơn vì chúng cùng loài thưc vật Cucumis sativa. Chúng cũng không ngon ngọt gì, vì thật sự  các trái mơ lông thời cỗ được biết là ăn  khi chưa chín, gây ra ói mữa .
Tuy nhiên điều này đã thay đổi hẳn nhờ trồng trọt và lai giống tuyễn chọn - cross breeding. Vào thế kỷ thứ 3 sau công nguyên ( AD ) mơ lông đã đủ ngọt để ăn với gia vị cay - spice . Và đến thế kỷ thứ 6 và thế kỷ thứ 7, chúng được công nhận là khác dưa chuột . Nhưng mãi đến các thế kỷ thứ 15 và 16,  mơ lông thơm- aromatic , ngọt - sweet mới xuất hiện lần đầu tiên , thành quả của lai tuyễn nhiều giống khác nhau.                          
Mơ lông  du nhập vào nước Anh lần đầu tiên vào đầu thế kỷ thứ 16 , và có tên là mai lông - mylone . Nơi trồng đầu tiên là Hampton Court năm 1515 và sau đó lan tràn khắp nước Anh , điển hình tại các vườn đại gia , nhà giàu, vì chúng rất hiếm . thuở ban đầu. Mơ lông được dân Tây Ban Nha đưa vào các đảo Caraibes và Mỹ Châu . Dân định cư đầu tiên ở Mỹ Châu rất thích mơ lông và đến thế kỷ thứ 18, chúng đã là một loại trái cây đắt giá ở buổi ăn tối và trồng trọt chúng trở nên rất quan trọng. Ngày nay , rất nhiều giống mơ lông được phổ biến. Tiếc thay ở Anh Quốc chỉ giới hạn vào 5 hay 6 giống điển hình. Hy vọng trong những năm tới vài giống mơ lông xa lạ, sẽ có mặt như đã xảy ra ở Hoa Kỳ , Mỹ Châu.
Mơ lông căng ta lúp nhận tên từ xã Cantalupo ở quận Sabina , trên đồi Sabine Hills gần thị trấn Tivoli , nơi có lâu đài Hồng Y , con riêng của nữ Chúa Lucrece Borgia ( Lữ Cách Bạo Gia ) một thắng cảnh cách thủ đô Roma, Ý vài chục cây số và nơi bán nho tươi Tivoli to, ngon ngọt nhất Ý ( ? ). Đồi Sabina Hills là nơi đức Giáo Hoàng thường nghĩ mát mùa hè . Căng ta lúp trồng đầu tiên đầu thế kỷ thứ 18 từ hột mua ở xứ Armenia, nơi được xem là nguyên quán của mơ lông . Ở   Mỹ , căng ta lúp là một giống  mơ lông xạ hương - muskmelon  do Kha Luân Bố - Christopher Columbus đem tới không cố ý từ thế kỷ thứ 15. Các tàu đem mơ lông tới dùng làm thực phẩm ; khi họ ăn xong ở Tân thế Giới vất hột và hột mọc lên ở đất Mỹ .
           Đôi chút thông tin tổng quát sơ lược trồng trọt
Mơ lông rất dễ trồng nếu lựa chọn đúng điều kiện. Điển hình trồng chúng ở nhà kiếng là tốt nhất ở xứ ôn đới như Anh Quốc, nhưng có thể trồng ở ngoài vườn ở những nơi ấm áp hơn. Chúng cần nhiệt độ cao hơn cà chua ( khoảng 30oC/85oF ) và ẩm độ cao ( sẽ giúp xua đẩy nhện đỏ - spider mite , một sâu bọ phá hại mơ lông ) và sẽ cũng mọc tốt nơi nào trồng được dưa chuột, vì đòi hỏi cùng điều kiện sinh thái như nhau. Trái với quan niệm phổ thông, bạn có thể trồng mơ lông chung với dưa chuột vì chúng không thụ phấn chéo - cross pollinate lẫn nhau.
Một điều kiện khác trồng tốt mơ lông là ánh sáng phải lan tỏa - diffuse thay vì ánh sáng chói lọi, chan hòa. Đất phải giàu và ráo nước và chúng thích không khí quanh chúng luôn luôn ẩm ướt. Dây mơ lông có thể để trên mặt đất làm giàn cho chúng leo . Mơ lông có nhiều dây tơ dài -long tendrils có thể bò xa tìm dàn leo lên . Khi trái phát triễn   đến kích thước một trái banh quần vợt chúng phải được chống đở độc lập thân dây hầu chịu sức nặng trái.   Có thể dùng bao dây, cột vào giàn . Khi hái mơ lông , điều tốt nhất là nhìn màu sắc trái . Căng ta lúp phải có vỏ màu xám xanh . Phải xem kích thướcc của mơ lông đã đủ chưa và nến bạn may mắn, trái mơ lông sẽ tách khỏi dây thân dễ dàng, một dấu hiệu khác là trái đã chín và sẳn sàng để ăn.
       Các loài, giống mơ lông trồng trọt ( bổ sung bài đăng tháng 4 năm 1998 ở KHPT )
 Các giống mơ lông trồng trọt rất lờ mờ . Đa số dân gian nghĩ đến các giống loài mơ lông như mật sương honeydew, galia, căng ta lúp - mơ lông rỗ v.v… Và nếu đó là một giống trồng trọt - cultivar , thì trong mỗi giống đều có nhiều thứ giống - varieties khác nhau .
*Mơ lông Ambrosia . Đây là một mơ lông xạ hương vỏ rỗ ! Nên mơ lông Ambrosia rất giống Căng ta lúp Mỹ Châu,  thịt màu cam đậm, mùi vị rất đậm đà và hương rất thơm
* Mơ lông Căng ta lúp Mỹ Châu . Trên phương diện kỷ thuật, các mơ lông này không đúng hẳn là căng ta lúp, mà chúng thật ra gần loài phụ vỏ rỗ mơ lông xạ hương . Trong khi đó căng ta lúp đúng tên gọi,  nguyên quán ở Ý  và chỉ thấy ở Âu Châu như đã nói trên. Vỏ trái căng ta lúp Mỹ màu be - len mộc - beige , rỗ màu xám , bao phủ một thịt màu cam lợt ngọt ngào.
* Mơ lông nâu vàng - butterscotctch melon. Rất phổ thông ở các chợ trời -farmer’s markets  và các tiệm đặc biệt , nhưng trải mơ lông này nhỏ và mềm như bơ ; vỏ trái màu xanh lợt thịt pha hai màu sắc xanh và cam. Khi chín , hương thơm ngọt ngào như đường.
* Mơ lông Căng ta lúp:  Đích thị căng ta lúp có vỏ màu be, có bao rỗ màu xám rỏ rệt có thịt màu cam lợt, rất ngọt. Căng ta lúp chín đủ rất nặng so với kích thước , rất thơm tho , chứa một điểm mềm nơi trước đó là cuốn - đáy hoa.
* Mơ lông mật sương honeydew melon. Đây có lẽ là giống mơ lông thông dụng nhất. Mơ lông mật sương ngon nhất ở Âu Mỹ là hái khi cuối hè , nhưng chúng lại có thể hái quanh năm. Trái rất to , tròn hay bầu dục, vỏ màu từ xanh đến vàng lợt, bao quanh một thịt từ vàng đến xanh
*  Mơ lông Galia:  vỏ màu xanh- vàng kim, rỗ mặt nhỏ bao quanh một thịt màu vàng xanh. Rất ngọt và rất thơm. Galia chín hơn nữa có vỏ vàng lợt và rất thơm tho .
* Mơ lông Charentais còn có tên là mơ lông Pháp hay mơ lông Điểm Tâm và thường được xem là có hương vị thơm ngon nhất. Vỏ Charentais từ màu xám đến màu vàng xanh ,  bao quanh một thịt màu vàng cam lợt , ngọt ngào. Khi chín, Charentais rất thơm  và vỏ xám biến thành một vỏ vàng ấm áp hơn
* Mơ lông Casaba: có trái to lớn , vỏ vàng , khía rỗ nổi cao, bao phủ một thịt màu cam, nhiều nước mùi hương vanilla .
* Mơ lông Sprite , trái nhỏ, nhưng dân gian mỗi ngày mỗi thích hơn. Chưa có mặt bán ở Anh. Trái chỉ bằng trái banh cricket , thường nhẹ hơn nữa kí ( kgr ). Thịt rắn chắc  như thịt trái pom - táo tây . Mùi vị rất ngọt ngào . lẫn lộn mùi vị của lê, pom và mật sương. Vỏ trái Sprite chưa chín màu kem lợt , trở thành vàng lốm đốm khi chín hẳn         
   Vài loài giống thứ giống mơ lông mới đang xuất hiện ở bang Ca Li là các giống Trung Đông, Tây Bắc Trung Quốc là mơ lông Tajik - A Phú Hãn, mơ lông uzbekmơ lông Hami tỉnh Tân Cương- Xin Kiang miền Tây Bắc Trung Quốc .v.v… 
Sau đây là liệt kê vài giống, thứ giống mơ lông xạ hương, và mơ lông lai  ( hột  giống lai trái thu hoạch không trồng lại được ) đang phổ biến ở Hoa Kỳ:
- thịt màu cam : Ambrosia 86 ngày , Burpee Hybrid 82 ngày, Earlisweet 68 ngày , Gold star một giống lai   86 ngày , Harper hybrid 86 ngày , Harvest Queen một giống lai 89- 95 ngày , Iroquois 87 ngày , Pulsar một giống lai  80 ngày , Saticoy Hybrid 80- 90 ngày , Superstar cũng là một giống lai  86 ngày…  
 - Thịt màu xanh : Galia, một giống lai 65 ngày, Jenny Link 75 ngày, Passport một giống lai 73 ngày, Rocky Sweet cũng là một giống lai 85 ngày …                             
        -   Thịt kiểu mật sương - honeydew :  Honeydew một giống lai : 95- 115 ngày , Early Dew một giống lai  80 ngày, Honey Brew 90 ngày, Morning Dew một giống lai 96 ngày, Tam Dew 95- 100 ngày, Venus cũng là một giống lai 88 ngày…   
          Và các loài giống mơ lông khác : Casaba Golden Beauty 110 ngày , Crenshaw 90- 115 ngày, Honey Shaw một giống Crenshaw lai 85 ngày, Marygold một loại casaba nhỏ 88- 92 ngày và là giống lai …
 
        ( Irvine , Nam Ca Li ngày 24 tháng 9 năm 2010 )

Trở lại Trang Khoa Học
 
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 852112 visitors (2210037 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free