TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Phu Yen 2
 
Tiếp theo

Lạm bàn, biết rỏ hơn về một tỉnh xa nhất phía đông nước nhà, chưa giàu dù nay đã yên lành :
Những hướng phát triễn tỉnh Phú Yên
G S Tôn thất Trình
 

Phần II : Lạm bàn những hướng phát triễn Phú Yên ( tiếp theo )   
 
 II - Quan niệm lại hướng phát triễn nông nghiệp nhắm thị trường Trung Quốc hay Nhật Bổn, Đại Hàn, Nga và Đông Âu và các vùng đất cao, ít đất ruộng lúa nước hơn, có lạnh phần nào thuộcTrường Sơn Tây như ba tỉnh Dak Lak , Gia Lai , Kontum kế cận và các tỉnh Lào, Cam Bốt phía tây bờ sông chánh  Mê Kông.
 
II- 1  Cần cố gắng giúp  Phú Yên  xứng đáng thêm danh “tốt ruộng lúa nước” thời cha ông .
 
400 năm trước , cha ông chúng ta phát triễn nông nghiệp Phú Yên chỉ chú tâm mở thêm ruộng lúa nước và khai thác mối lợi đầm đìa như đã nói trên. Thời Pháp thuộc, theo chỉ dẫn của kỷ sư Nhật ( theo lời nhà học giả, thi sĩ… Đoàn Thêm ) , Pháp cũng lựa chọn tăng gia lúa nước bằng xây đập tưới đồng ruộng Đồng Cam, một trong ba đại công trình thủy nông miền Trung là đập Bái Thượng ( Thanh Hóa ), đập Đồ Lương ( Nghệ An) và đập Đồng Cam ( Phú Yên).
Tài liệu thống kê năm 2007 cho biết đất nông nghiệp Phú Yên chiếm 124 815 ha, ( nếu kể luôn đất nông lâm và đất chăn nuôi thì đến trên 290 000 ha ) trong số đất lảnh địa toàn tỉnh là 504 531 ha. Từ năm 1995 đến năm 2002, diện tích lúa cả ba vụ ( lúa đông xuân , hè thu và lúa mùa) tổng cọng từ 58 000 ha đến dưới 60 000 ha, như vậy cũng chỉ là một phần ba đất phù sa diện tích các đồng bằng PhúYên ( khoảng 82 000 ha như đã kể ra ở phần  địa lý khái quát. Diện tích trồng lúa nước Phú Yên, một tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ- South Central Coast, chỉ lớn hơn Khánh Hòa, ít hơn Quảng Ngãi và nhất là Quảng Nam , Bình Định. Nhưng năng xuất, nhất là trong vụ Đông Xuân đạt 4.95 t/ha đến 6.17 t/ha,  cao  nhất trong số các tỉnh này, đúng lời  truyền tụng xa xưa “ tiếng đồn.. . Phú Yên tốt ruộng .. “ thời Đàng Trong . So với cả nước, năng xuất này còn thua kém năng xuất vụ lúa đông xuân các tỉnh Thái Bình, Nam Định đồng bằng sông Hồng và Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, đồng bằng sông Cửu Long .  Năng xuất lúa nước trung bình 4- 5 tấn mỗi vụ, không mấy thay đổi, từ nhiều năm gần đậy Chứng tỏ các vụ lúa còn khả năng gia tăng thêm năng xuât, phẩm giá gạo, nếu áp dụng tốt những kỷ thuật mới - good agricultural practices, như tưới tiêu, bón phân hóa hoc đúng  loại NPK, đúng liều lượng ,đúng thời kỳ sinh trưởng cây lúa cấy hơn, dùng các giống lúa siêu năng- super rice Thàn Nông( IR) hay Nông Nghiệp ( NN) mới hay các giống lai - hybrid rice (kỷ thuật đực bất thụ tế bào chất ba dòng hay hai dòng quang kỳ tính hay nhiệt kỳ tính)  mới của Trung Quốc, hay đã phổ biến ở miền Bắc, kháng sâu, kháng bệnh, kháng hạn, kháng mặn, kháng phèn ( đất phèn, mặn ven biển, đầm phá… ) hơn, vì miền Trung hay Phú Yên không có Trung Tâm tuyễn lựa di truyền lúa, như miền Bắc hay miền Nam. Nhắm mục tiêu đưa năng xuất lúa Phú Yên trung bình lên  7-8 tấn /ha/vụ và từ năm 2015 trở đi  phải đạt  9- 10 tấn vào mùa nắng ở những nơi có đủ nước tưới tiêu.
Những năm trước 2002, bình quân theo đầu người lương thực có hột ( phần lớn là lúa gạo , thêm đôi chút bắp - ngô), Phú Yên thường lớn nhất các tỉnh duyên hải  NamTrung Bộ, hơn hẳn các tỉnh Tây Nguyên ( Kontum, Gia Lai, Đak Lak, Lâm Đồng). Nhưng phải lựa chọn các giống thích nghi cho vùng Tây Nguyên, đặc biệt là các giống nếp “ thổi cơm” nguồn gốc Lào hay Đông Bắc Thái Lan chẳng hạn. Và tại sao lại không nhắm thêm xuất khẩu sang Trung Quốc các loại gạo indica hột dài, chiên xào cơm ngon cứng và rời rạc hột hơn là các giống japonica Trung Quốc, các loại nếp hay gạo nấu rượu sang Nhật, hay sang Đại Hàn làm “rượu cần” hay nước ngọt pha rượu gạo xủi bọt -carbonated,  kiểu” makgeolli nouveau “ , mới đây đã bán nhiều ở Nam Hàn hơn cả rượu vang ( rượu nho ) bình dân Beaujolais của Pháp. Và tại sao lại không nghĩ đến việc chế tạo sửa gạo - rice milk bổ sung , bổ dưỡng , ngay cả Hoa Kỳ cũng đang phổ biến trộn vào các cốc ngũ cốc - cereals bửa ăn điểm tâm. Song song với sửa bò, sửa dê, sửa đậu nành, những sản phẩm nông mục Phú Yên có ý định tăng gia .   
 
II- 2  Vựa bắp , mè , đậu nành… thay một vụ lúa , nếu thiếu nứớc tưới hai, ba vụ lúa một năm ?
Phú Yên có thể làm vựa lúa tiếp tế cho các tỉnh Tây Nguyên, nếu tương lai Tây Nguyên thành công chuyên nghiệp thêm về cây công nghiệp lâu năm, cây trái xứ mát hay cây trái bán nhiệt đới đất cao, thay thế lúa rẫy ( lúa đất khô, không ngập nước) nguyên nhân lớn tàn phá, tiêu tan rừng rậm ở Tây Nguyên, khi dân số gia tăng. Có thể luôn cả vựa bắp nữa. Sản lượng và năng xuất bắp Phú Yên rất kém cỏi ( sản xuất vài nghìn tấn mỗi năm năng xuất là 0.7 t/ha , trong khi nước nhà đã có kỷ thuật và các giống bắp lai đơn hay kép , năng xuất 8- 10 tấn /ha; vũ lượng tỉnh nhà tương đối ít, có nơi chỉ đến 1300mm, nhiều ruộng phù sa pha nhiều cát, thích hợp cho bắp hơn là lúa nước, bắp lại ít đòi hỏi tưới hơn lúa nước cao năng nhiều và cũng thường mau thu hoạch hơn. Tương lai, Phú Yên tất phải để dành nước cho các công nghệ căn bản, ngoài cung cấp đầy đủ nước sach cho các thị xã, thị trấn mới, cũ , Phú Yên đang cố gắng thiết lập. E có khi phải nghĩ đến dùng bắp chế tạo chất ngọt, đường xi rô, thay cho mía đường như nhiều nước trên thế giới hiện nay. Rút kinh nghiệm đau thương thời Pháp thuộc, tư bản Pháp - Hòa Lan sang đoạt đất ruộng lúa để trồng mía cho“Công Ty mía đường An Nam - Société sucrière d’ Annam“  Đồng Bò, gần đập Đồng Cam- Tuy Hòa, vùng sinh quán của Trương Tử Anh ( tên thật là Khán , bí danh Phương, cả Khán hay Cả Phương), lảnh tụ thiết lập năm 1939 đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng; khi bị Pháp chuyễn ông về Phú Yên quản chế năm 1942, ông đã trực tiếp lảnh đạo 20 000  nông dân Đồng Bò - Đồng Cam chống đối  mảnh liệt ( Nguyễn Đức Cung , Định Hướng, mùa hè 2009).  Cũng không nên quên cố gắng luân canh một vụ mè trên ruộng đất nhiều cát, nhưng phải du nhập các giống mè cao năng đặc biệt tuyễn chọn ở Thái Lan, đậu nành ( đổ tương ) có thể là loại ăn non của Trung Tâm Rau Đậu Quốc Tế Đài Loan hay đậu nành làm sửa đậu nành , tàu hủ, tempeh ( tàu hủ kiểu Nhật ) thay vụ lúa thứ ba hay vụ thứ hai trên đất nhiều sét hơn như ở các nước Nam Mỹ, Ấn Độ (?) . Còn có thê  thử nghiệm các thứ giống mới  đậu  đổ xứ nóng, đậu xanh vỏ đen hay vỏ xanh, đậu phụng ….                     
 
II- 3 Tạo “ Miệt Vườn” đồng bằng, thung lũng các  sông , vùng đồi núi thấp  Phú Yên đặng chăng ?
`          
Khí hậu Phú Yên không có mùa lạnh . Như vậy cần lợi dụng ưu thế này để phát triễn những mùa màng, rau, hoa, đậu, cây trái ( cuả ) … xứ nóng, sản xuất thu hoạch mùa đông, xuất khẩu (tốt nhấtn nay là dưa hấu cải thiện không trồng được ỏ Trung Quốc mùa đông, một thị trường đang chớm nở (?) , trao đổi với mùa màng cần lạnh mùa đông ở Tây Nguyên , Lào, Miên , Nhật , Hàn Quốc , Trung Quốc. Phú Yên có thể có ưu thế hơn các tỉnh miền Nam Thái Lan, vì chuyên chở đường biển rẽ hơn đường bộ, một khi cảng Vân Phong ( Khánh Hòa ) và cảng Vũng Rô  hay các cảng nhỏ khác ( Hòa Tâm , Xuân Phương , Xuân Thịnh, An Hòa ) thật sự hoàn tất, hoạt động theo phương tiện tân tiến, cận đại., trang bị đầy đủ kho , vựa và chế biến , bao bì , bảo quản.
Lý do gì các vườn dừa cao, già cỗi Sông Cầu, Tuy Hòa (? ) năng xuất dầu , bánh dầu …thấp kém, chưa được thay thế bằng  các giống mới lai giữa dừa lùn và dừa cao cao năng, sớm, nhiều trái , dừa trái uống nước,  ăn cơm dừa  non ( như vậy cần lựa chọn các giống đặc ruột, cơm dừa chiếm gần trọn thể thích bên trong gáo dừa ), nước uống an toàn sạch sẽ không ô nhiễm, xuất cảng nguyên  gáo ( trái đã lột vỏ  xơ ba da, gáo xén cỗ tận mắt gáo, bớt phi tỗn chuyên chở..  ) ,  một dạng thương phẩm trái dừa uống nước nay đã thấy bán đầy các siêu thị Hoa Kỳ, Âu Châu (? ). 
Dưới bóng dừa cao trồng ca cao như đã thành công mới đây ở các vườn dừa cũ Bến Tre, ở Tiền Giang và mới đây cả ở tỉnh Đak Lak nữa ? Tại sao đến bây giờ mới nghĩ đến khuếch trương trên đồi núi, trên đất xám , đất vàng đỏ, đất cát thoát thủy…. cây hột điều  ( đào lộn hột )- cashew nut  ở Phú Yên, dù mấy năm qua nước ta  đã phải dự trù nhập cảng đến 20- 50  000 tấn hột còn vỏ cứng loại hột hạch quả xứ nóng này  từ Mozambique, Tanzania. Ứớc lượng  các tỉnh Miền Nam và Tây Nguyên sản xuất chưa đủ  nguyên liệu hột còn vỏ  đem   đốt ,  trích hột cho trên 200 nhà máy biến chế  xuất khẩu, giữ vững vị trí  Việt Nam là nước xuất cảng hột điều đã đốt vỏ đứng hạng nhất trên thế giới.  Loại hạch quả này rất thích hợp khí hậu không có lạnh và khô hạn phần nào của Phú Yên và Việt Nam đã có những giống  cao năng, có tháp ( ghép ) hay không ? Có lẽ một mục tiêu trồng 20 000 ha hột điều giống cao năng ở Phú Yên thập niên tới 2010- 2020  thay vì cho cả 6 tỉnh ( kể cả thành phố Đà Nẳng ) chánh quyền đã đề ra cuối năm 2008 , e đúng đất đai , khí hậu cho loài hạch quả xứ nóng , tưỏng đối khô hạn này, mau chóng bổ sung thiếu thốn sản xuất quốc gia và chương trình xây đắp “ Miệt Vườn Phú Yên “ mau thành tựu hơn chăng ?   
            Nông dân nhất là các tiểu nông “ Miệt Vườn “ Phù Yên có cơ làm giàu hơn ruộng lúa nước, nếu tỉnh nhà chịu khó đầu tư thí nghiệm, tạo vườn cung cấp cây giống mới cũ cao năng , huấn luyện nông dân kỷ thuật khoa học “ làm vườn - viên học ” mới,  khuếch trương đại trà hợp lý, các giống loài cây trái cỗ truyền như xoai cát Chùa đá Trắng ( không kể các xoài cát Khánh Hòa phẩm giá không thua kém xoai cát Hòa Lộc,  Tiền Giang ), mit nghệ cao năng của huyện Bố Trạch hay của Úc Châu, mảng cầu( na ) xiêm hay mảng cầu  giai Tân Thành - Gò Công,  nay cũng đã có nhiều giống tốt ở Tây Ninh; lưu tâm đến những loại cây vườn trái đã thành công nhiều ở các tỉnh khác tương đối khô hạn miền Duyên Hải Nam Trung Bộ  như các giống thanh long trồng leo trụ cọc xi mặng , thắp đèn sáng cắt ngắn dạ ( quang ) kỳ cho cây ra nhiều trái, trái to, nay đã tái xuất cảng sang Nhật, lọt sàng kiểm dịch khắc khe , nhờ kỷ thuật bảo quản trị sâu bệnh trái thu hoạch bằng hơi nước nóng , hay sang Trung Quốc , Nga và Đông Âu ít bị kiểm dịch khắc khe  ?   Lập các vườn tiểu nông, cá nhân hay tập thể chuyên canh ( thay vì đa tạp ), liên canh liên địa, cùng sinh thái, cho dề dàng săn sóc hơn, có đủ số lượng khá lớn cùng giống ( vườn chỉ khuyến khích hai ba giống tốt là nhiều ) kích thước đồng đều dễ bảo quản , bao bì; như  trái bơ - avocado,  loại trái nhỏ, các giống lai giữa nhóm Guatemala và nhóm Mexicô như giống bơ hình trái lê vỏ tím Haas thịt ngon hay giống vỏ xanh trái to Fuerte ( trồng nhiều ở đảo Reunion để bán sang Pháp trưóc đây ) , Israel và nay là Chi Li ( Chí Lợi )- Nam Mỹ đã xuất khẩu sang Nhật, Hoa Kỳ, Tây Âu.                  
             Nhắm vào thị trường Trung Quốc , cần chú trọng đến các vườn chuối khác loại chuối Già ( già hương, già cui Cái Bè,chuối tiêu Đà Lạt ); tuyễn chọn các loại chuối Xiêm , chuối Sứ,  chuối Cau ( Cao ),chuối Đồng Nai v.v…., thường chịu nắng hạn, ít bệnh hiểm nghèo hơn chuối gìà. Các giống chuối  này, trồng ở vùng Khe Sanh - Lao Bảo,   mới đây đã xuất khẩu sang Trung Quôc. Có lẽ cũng không nên quên các loài lạc tiên- chùm bao - chanh dây chịu nắng hạn ( hình như dân Đức và dân Đông Âu rất thích mùi vị lac tiên ( ?) không phải giống vỏ tím hay vỏ xanh vùng cao mà là nhóm vỏ vàng vùng thấp xứ nóng hay giống vỏ màu lam Quảng Nam cải thiện ; các loài đu đủ lùn cải thiện kháng bệnh đốm vòng , cao năng, cao phẩm ( càng lên cao độ, có lạnh, đu đủ  càng ít ngọt hơn ? ) tuyễn chọn mới ở Ha Uy Di ,Mexicô, Ấn Độ; các giống hồng xiêm - sapôchê thịt trắng - white sapote ,  (thât ra thuộc họ Cam Quít- Rutaceae ), trái to, nhiều trái hơn, kháng hạn nhiều hơn các giống sa pô chê miền Nam hay miền Bắc (  Xuân Đỉnh ), sa phô chê  ruột hồng Ma Mây Nam Mỹ hay Florida; các loài bon bon Mã lai , dâu da miền Nam, dâu tiên vỏ đỏ, còn có tên là trái nam trân Quảng Nam cải thiện; các loài táo ta - táo tàu - jujube ( roi, mận ta, đào, lý ) cải thiện Ấn Độ ngay cả các loại bồ quân - bần quân , xơ ri cây đầy gai xứ nóng có lẽ có giống cải thiện Ấn Độ ( ? ) v.v… và các loại xoài riêng miền thấp ( miền Nam đã biết rỏ trên 20 giống xoài riêng cao năng, thịt ngon ) hay các loại lai tuyển chọn tam nhiễm- 3n Mong Thong Thái Lan ( đã tuyễn chọn thêm ở miền Nam ), thích hợp cho đất xám pha cát, không phải chỉ trồng  tốt ở đất đỏ nâu basalt mà thôi, vào các tháng mùa nắng kéo dài xoài riêng ở Thái Lan còn được tưới nước , thâm canh đễ cho năng xuất cao. Xoài riêng Việt Nam nay đã có mặt nhiều ở các siêu thị Hoa Kỳ, nhưng sản lượng xuất khẩu còn kém xa con số 1.5 triệu tấn một năm của Thái Lan.     
 
 II - 4  Ba loài cây đa niên công nghệ Việt Nam quốc tế đã biết, thị trường xuất khẩu lớn là tiêu, cà phê vối, cao su, nên phát triễn mạnh mẽ trên các đất thoát thủy tỉnh nhà, củng cố danh hiệu “ Miệt vườn” sông Ba và phụ lưu lớn
 
Phú Yên còn rất nhiều đất nông lâm chưa khai thác, gần 300 000 ha. Ba loài cây thích hợp cho thế nông lâm mục , nhất là đất đồi núi thấp, dễ thoát thủy. Đó là vườn tiêu và vườn cà phê vối  robusta, vườn cây cao su.
Chúng ta đã cải thiện thành công ngành trồng tiêu ( giống tốt, kháng bệnh, kháng tuyến trùng, canh tác hửu cơ hợp lý, nọc sống hay nọc chết, nọc xây gạch hay xi măng … ) và đã chiếm hạng nhất xuất khẩu tiêu trên thế giới , vài năm qua. Chuyên viên quốc tế cho biết trong tương lai Việt Nam khó gia tăng thêm sản xuất, xuất khẩu tiêu. Nhưng như vậy là quên các đất pha cát, đất vàng đỏ đồi núi Phú Yên thích hợp cho các giống tiêu Cam Bốt, Hà Tiên, Phú Quốc, Mã Lai, Sri Lanka, Inđônêxia, Ấn Độ hơn là các giống hợp đất đỏ nâu Chư Xê ( Đăk Lăk) Bù Đăng, Bù Đốp ( Đắc Nông )  Ngãi Giao , Đất Đỏ ( Bà Rịa- Vũng Tàu )  hay Vĩnh Linh , Gio Linh ( Quảng Trị ) trước đây .      
Chức quyền cũng rất hửu lý đề nghị phát triễn cà phê ở Phú Yên. Cà phê Phú Yên phải là cà phê vối Robusta- Coffea canephora, hay cà phê lá mít Coffea  liberica . Dành đất đỏ cao hơn ở Gia Lai , Đăk Lăk kế cận cho các loại cà phê cần lạnh hơn như loại Coffea arabica ( cà phê lá chè ) có khi cả trà( chè ) ( Ô Long Tàu , Assam, Ấn Độ và Sri Lanka cho Krong Nừng -Biển Hồ ( ? ) - Gia Lai , Bảo Lộc- Lâm Đồng . Xin nhắc trà là nông sản Việt Nam xuất khẩu, giá trị và số lượng gia tăng năm 2009, có thể trên 125 000 tấn trà khô )  Các đất quanh các hồ đập sông Ba Hạ , sông Hinh , sông Ea Hnang…, đặc biệt thích hợp cho cà phê , vì có thể thiết lập hệ thống tưới mưa phùn hay tưới nhỏ giọt ít tốn nước hơn, như dân Việt đã thực hiện ở các tiểu điền cà phê Đắk Lăk,   trước và sau năm 1975 , tăng năng xuất, bảo đảm mùa hoa khỏi rụng hết và đậu trái tốt đẹp, lở khi nắng hạn đầu mùa, giữa hai mùa mưa nắng. Thành phần cà phê Phú Yên xuất khẩu tương lai phải đạt vài trăm triệu đô la trong tổng số xuất khẩu cà phê trên 1.5 tỉ năm 2009.  
Hiệp hội Cao su Việt Nam có cho biết là khó lòng tìm ra thêm 300 000 ha, thực hiện chương trình 1 triệu ha cao su ở Việt Nam, rằng nay diện tích đã bảo hòa ở mức 700 000 ha, vì các cây công nghệ lâu năm khác ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cạnh tranh. Hiệp hội hình như quên bẳng các huyện Phú Yên lân cận các tỉnh Gia Lai, Kontum, Đăk Lăk, đất thoát thủy đồi núi thấp hơn là đất cao Tây Nguyên, Bắc Lào( Nam Tha, Phong Sa Ly ) , Nam Trung Quốc(  Quảng Tây , Vân Nam) , những nơi  hiện phải trồng cao su bị nhiều lạnh, làm cây lâu lớn hơn  ( 9- 10 năm thay vì 6-7 năm mới bắt đầu cạo mủ được) , thời gian cạo mủ chỉ 7 -8 tháng thay vì 10-11 tháng ở miền Đông Nam Bộ . Nếu sợ thiếu đất, phải cạnh tranh đất dành cho “ miệt vườn cây trái “ nói trên, có lẽ nên cải hóa  một phần đất lâm nghiệp   165 915 ha thành đất ba thế nông lâm mục, dành cho phát triễn cao su , vì nay đã có các giống cây cao su làm bột giấy thay vì chỉ nghĩ đến tre nứa , bạch đàn - eucalyptus hút hết nhiều nước ngầm. C ao su còn cung cấp cả gỗ ván lúc già cồi,  cạo mủ lúc cây còn xuân, giữa các hàng cao su trồng cỏ che đất , loài họ đậu còn có thể nuôi dê , nuôi bò ( Phú Yên có chương trình lai tuyễn giống bò địa phương với giống Sind Ấn độ , khá thành công ) các loại đậu ngắn ngày chịu han như đậu rằn - cowpea , đậu săng , đậu thận- kidney beans , đậu cô ve - haricots khô luôn luôn có mặt các bửa cơm dân Nam Mỹ . Có khi cả dưa hấu xuất khẩu như đã làm ở Tây Nguyên, cac giống khoai lang , khoai mỡ - igname, yam;  nhưng nên cố tránh xen kẻ sắn ( khoai mì) vì loại cây này cùng họ thực vật với cây cao su - hevea, có thể chứa chung nhiều bệnh cây tai hại.  Nông nghiệp PhúYên cần lảnh đạo các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ vựợt  cao lên hơn hẳn con số tiểu điền cao su thảm hại hiện tại là 7000 ha cho miền Trung.     
Thể thức lập các vườn  tiểu nông kiểu “đại gia đình” mẩu hệ hay phụ hệ, cho các đồng bào dân tộc  ít người,  quanh những vùng đất Phú Yên giáp ranh các tỉnh Tây Nguyên, có thể mô phỏng cao su “Thượng “ Krong Buk ( Buôn Hô ) - Đăk Lăk, cà phê Thượng Gia Lai. Tóm lại Phú Yên phải đóng góp thêm trong tương lai tăng gia phần xuất khẩu nông phẩm xứ nóng quan trọng, tương xứng với đất đai, khí hậu, thứ giống cao năng, kỷ thuật cập nhật tỉnh nhà, đã giúp Việt Nam đạt tổng cọng xuất khẩu nông sản trên 7.5 tỉ đô la Mỹ, năm 2009.
 
III-   Vài hải sản chưa khai thác đúng mức ,  vài loại gần bờ đã  lạm thác; tăng cường nuôi trồng thủy sản, cả trên biển cả lẫn ở đất liền lục địa . 
 
Trong 11 tháng đầu năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu 3.94 tỉ đô la Mỹ mặt hàng thủy sản, ít hơn năm 2008 đôi chút ( ? ) vì xuất khẩu tôm, cá tra, cá basa, sang Hoa Kỳ và Nhật Bổn có phần suy kém. Hơn hẳn giá trị xuất khẩu 6 triệu tấn gạo dự trù năm 2009. Về thủy sản Phú Yên, trước tiên nên nói đến  đến đánh bắt nhóm cá ngừ  xa bờ.  
 
III- 1. Cà ngừ xuất khẩu và tiêu thụ nội đia
 
Việt Nam đánh bắt mỗi năm chừng 1, 9 triệu tấn hải sản (tài liệu 2005 ). Cá ăn chìm - demersal chiếm 30 -35 % và cá trên mặt biển ăn ở độ sâu trung bình - pelagic chiếm 65- 70% ; tuy rằng ở miền Nam , đáy biển cạn hơn , tỉ lệ có thể là  50% . Hải sản đánh bắt ngoài khơi , xa bờ - offshore ( theo định nghĩa là sâu hơn 50m ở miền Trung và hơn 20m ở miền Nam ) chỉ chiếm 15% khả năng hải sản đánh bắt, khoảng 300 000 tấn Đa số đánh bắt còn ở  phần biển độ sâu 50 - 100m. Năm 2001, Việt Nam  ước lượng có gần 80 000 tàu ghe  đánh cá .Tổng số mã lực là 3.7 triệu ( trung bình mỗi tàu có 45 mã lực ), trong số này 6000 tàu có mã lực trên 90 là loại tàu đánh cá ngoài khơi, xa bờ . Năm 2003 , tàu đánh cá  xa bờ gia tăng lên 6700 chiếc hay 6 % mỗi năm. Phương thức  đánh bắt cá ở tàu xa bờ gồm 34.2 %   lưới vét - lưới rê ( trawling) , 21.1 % ,lưới túi ( purseining ) ,  20.4 % lưới chăng ( cá trồi đầu nhưng không thoát thân ra được ) - gillnetting , 17.3 % giăng  dây câu dài - longlining,  5% lưới nâng- lift netting và 2% các phương pháp khác. 60 % hải sản tiêu thụ trong nước, 18 % xuất khẩu và 20% công dụng khác, tỉ như làm thực phẩm chăn nuôi.  
      Trử lượng hải sản ở Hải Phận Kinh Tế Đặc Thù - Exclusive Economic Zone( EEZ ) Việt Nam , diện tích 1 000-000 km2 ,  được ước lượng là 4.5 triệu tấn. Số lượng có thể đánh bắt không tai hại tương lai hay khả năng đánh bắt là 1,7 triệu, 850 000 tấn cá ăn chìm, cá độ sâu trung bình và 120 000 tấn cá trên mặt đại dương-oceanographic pelagic. Từ năm 2004, hải sản khai thác đã vượt quá khả năng đánh bắt ở biễn gần bờ, làm mức sản xuất có chiều gia giảm, kích thước cá mỗi ngày mỗi nhỏ đi. Nghiên cứu  của Viện Khảo cứu Hải sản  Biển Việt Nam, ước lượng dự trử hải sản xa bờ trong hải phận nước nhà là 1.93 triệu tấn , trong số đó khả năng khai thác là 770 000 tấn. Hải sản đánh bất biển xa bờ hàng năm , năm 2004  lên đến 300 000 tấn, nghĩa là 15% dự trữ tổng cọng và 40% khả năng khai thác. Phần lớn cá ngừ đại dương và các loại liên hệ , vẫn còn khiếm thác , Đặc biệt cá ngừ vi vàng( ngừ đại dương )- yellowfin tuna Thunnus albacares và cá ngừ mắt to - bigeye tuna Thunnus obesis chỉ mới khai thác 30% , cá ngừ vằn hay ngừ sọc dưa - skipjack tuna Katsuwonus pelamiscá cờ ( kiếm cờ) - sailfish Istiophorus platypterus   chỉ mới 20% , cá nục heo - mahi mahi Coryphaena hippirus chỉ 10% . Biển Việt Nam ở một vùng thế giới có nhiều tài nguyên cá ngừ đặc biệt là cá ngừ vi vàng và cá ngư mắt to , nhất là ở  biễn miền Trung, thành phố Đà Nảng , các tỉnh Bình Đinh, Phú Yên, Khánh Hòa. Mùa cá ngừ ở vùng này  là từ tháng 11 đến tháng ba năm sau . 70%  thuộc loại cá ngừ mắt to. Năm 1997, chánh phủ đặt mục tiêu tạo một đội  800 tàu lớn đánh cá xa bờ , khai thác hải phận đặc thù kinh tế - EEZ nước nhà, cọng thêm mục đích giảm áp lực lạm thác hải sản gần bờ và tăng gia xuất khẩu. Đánh bắt cá ngừ trên thế giới ngày nay dùng tàu lớn thả dây câu- longline large vessels . Việt Nam chỉ mới khởi sự cận đại hóa loại tàu có trang bị phương tiện này, từ  các năm 1992-94 , bắt đầu bằng các tàu cũ mua lại của Nhật, Đài Loan và Nam Hàn. Nhưng năm 2005, Hiệp hội Quốc doanh Hải sản Biển Đông ESFICO   đã có ba tàu lớn ( từ 350 mã lực  trở lên) trong số 15 tàu đánh cá cận đại làm bằng vật liệu composite, theo họa kiểu Nhật Bổn, đóng tại các xưởng tàu quốc nội ( đã đóng được ở xưởng đóng tàu Sông Cầu chưa ? ). Tuy nhiên,  tàu gỗ cở nhỏ hơn vẫn tiếp tục hành nghề từ các cảng miền Duyên hải Nam Trung Bộ, sử dụng dây câu tay - handline, dây câu giăng ngắn - short long line.   Ngư dân hay tổ hợp sắm tàu lớn hơn 90 mã lực, số đi xa bờ hơn cũng đã tăng thêm nhiều. Tính đến năm 2005, riêng Phú Yên đã sắm được 500 tàu đánh cá ngừ  giăng dây câu dài -long line , con số  bằng Bình Định, trên Khánh Hòa trong số 1500 - 1800   tàu ( còn nhỏ) cả nước, động cơ chánh 90-150 mả lưc, đi xa  cách bờ100 km ( 400 km  ) , dây câu có móc  300 - 500 lưỡi câu , đôi khi 800 lưỡi câu , ở mức sâu 50-70 m, mồi  bằng cá chuồng, thay vì  mồi mực dầu biển Phú Yên rất nhiều loài mực ) ở các tàu lớn. Đa số câu cá ngừ vàng thay vì cá ngư mắt to ở tàu lớn, mỗi năm câu được 8- 10 tấn cá ( thay vì 50 - 100 tấn ở tàu lớn) , cá trữ trong nước đá, một phương thức chưa mấy cận đại.  Đa số về đậu  bến cảng Tuy Hòa. Ngoài ra còn có khoảng 40 tàu đánh cá ngừ loại lưới túi - purseine , ít hơn Bình Định nhiều ( Bình Định có hơn 500 tàu lưới túi nhỏ )trong số 650 tàu đánh cá loại này tính theo cả nước . Phần lớn cá ngừ đánh bằng lưới túi, đánh bắt được cá ngừ sọc dưa- ngừ vằn, tuy rằng Bộ Thủy Sản kê khai cá ngừ đánh bắt bằng loại lưới túi là ngừ chu - frigate tuna   Auxis thazard và cá ngừ ô - bullet tuna Auxis rochei, những loại cá ngừ biển Tây  cạn hơn, kích thước tương đối nhỏ, chỉ thích hợp tiêu thụ nội đia. Tàu dùng lưới chăng- gillnet không có ở Phú Yên , nhưng khá nhiều ở Nha Trang - Khánh Hòa. Cá ngừ bắt được bằng lưới chăng phần lớn là cá ngư vằn.Tưởng cũng nên biết qua là lưới chăng thử nghiệm ở quần đảo Trường Sa đánh bắt được phần lớn là cá ngừ vằn, không phải là các ngừ vi vàng như chúng tôi được cho biết biết trước những  năm 1973- 75 .
Tổng cọng mức đánh bắt cá ngừ toàn cõi Việt Nam ước lượng khỏang 40 000 tấn một năm,  xuất khẩu 20 000 tấn. Trong đó phần Phú Yên đã lên đã trên 2500 tấn  năm 2005 .Nhưng có thể tăng thêm nữa, vì ngay cả trong hải phận đặc thù kinh tế nước nhà , mỗi năm  còn bị tàu ngoại quốc đánh lậu, hải quân nước nhà chưa bảo vệ hửu hiệu,  chừng 100 000 tấn cá, phần lớn là loại cá ngừ , cá thu xuất khẩu. Phú Yên cần đóng  tàu lớn hơn, trang bị các loại lưới  và cách trữ cá cận đại hơn , đi xa bờ hơn, đánh cá cả năm thay vì theo mùa, đánh thêm nhiều loại cá ngừ nhỏ ( các loài Auxis spp, ngừ bò- longtail tuna Thunnus tonggol , cá nục- round scad Decapterus maccarellus, cá thu vách, thu chấm, bạc má , ba thu-mackerels Somberomus spp. Rastrelliger spp …tiêu thụ trong nước.  Nếu thực hiện tốt đẹp, Phú Yên nên tổ chức nhà máy biến chê đống cá ngừ hộp hay đông lạnh xuất khẩu ( hình như Tuy Hòa chỉ mới có cơ sở hậu cần cho công nghệ cá ngừ ),  nay còn phải biến chế ở Qui Nhơn, Đà Nẳng  hay Sài Gòn.
 
 III-.2.   Đẩy mạnh hơn ngành nuôi trồng thủy sản - aquaculture, thay quan niệm chỉ khai thác ” nhất phá sơn lâm - phá rừng , nhì đâm hà bá- đánh bắt cá tôm” .
 
 * Nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước mặn
 
Mục tiêu của Bộ Thủy Sản Việt Nam từ năm 1999 là đạt cho được vào năm 2010 sản xuất trên 2 triệu tấn thủy sản nuôi trồng, xuất khẩu, trị giá 2.5 tỉ đô la Mỹ tạo ra và tăng gia lợi tức cho 2 triệu người, phát triễn kinh tế quốcgia, cũng cố an ninh thực phẩm và bảo vệ bờ biễn nước nhà , Biển Đông và Biễn Tây . Như đã nói trên tân tiến hóa ngành đánh cá xa bờ có cơ phải giảm bớt số tàu nhỏ bé , phương tiện, kỷ thuật cỗ lồ sĩ làm các tiểu ngư  thất nghiệp . Như vậy phải huấn luyên, chuyễn hướng họ về ngành nuôi trồng thủy sản. biến các đất nông nghiệp năng xuất kém qua nuôi trồng thủy sản, lợi tức cao hơn. Thành công nhất là biến chuyễn đất ngập nước mặn hay nước lợ thành ruộng nuôi tôm nhất là tôm sú - giant tiger shrimp ở hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu . Cà Mau  đã chuyễn đổi 147000 ha ruộng ngập măn qua nuôi tôm , 125 000 ha năm 2001 và 22 000 ha năm 2002 , đưa tổng số ruộng nước lợ nuôi tôm từ 77 000 ha năm 1999 lên 236 555 ha năm 2005. Con số của Bạc Liêu ít hơn, chỉ chuyễn được  đến  năm 2000  tổng cọng  14 446 ha và năm 2003 với đỉnh chuyễn hướng cao 13975 ha đất ruộng lúa ngập mặn và đầt phen qua ruộng tôm. Các tỉnh duyên hải miền Nam Trung Bộ ít thành tích hơn , chỉ mới chuyễn được qua nuôi trồng thủy sản 3032 ha, thời gian 1999 -2005, từ ruộng lúa xấu , đất cát bờ biễn, đất lau sậy lác năng, đất bỏ hoang. Ninh Thuận là nơi đất chuyễn hóa cao nhất, hơn hẳn Phú Yên.
  Nuôi trồng thủy sản đất nước lợ và ngập mặn, ở Việt Nam cũng như ở Phú Yên,   nhắm chính yếu vào tôm, nghêu sò và cua - vẹm. Nuôi tôm ở đất ruộng Việt Nam tăng   trung bình mỗi năm 31.2% , từ 210 440 ha năm 1999 đến 604 479 ha năm 2005. Tuy vậy, ngành nuôi tôm  lại giảm ở các tinh duyên hải Nam Trung Bộ gồm Phú Yên . Diện tích và sản lượng tôm nuôi ỏ các tỉnh này gia giảm năm 2005, so với năm 2004.  Trong khi sản xuất tôm cả nước tăng 4.1 lần hơn, đạt 324 680 tấn năm 2005, so với sản lượng năm 1999 . Riêng châu thổ Sông Cửu Long có sản lượng cao nhất nước, đạt 263 000 tấn ( 81,.2 % cả nước ) năm 2005, 4.5 lần hơn năm 1999 . Sở dĩ như vậy là vì Phú Yên cũng như các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ chuyên về nuôi tôm thẻ chân trắng - white leg shrimp , sản xuất 2568 tấn loại tôm này, trong tổng số 6268 tấn năm 2005. Vùng duyên hải này  có diện tích 333ha nuôi tôm ,năng xuất 7.7 tấn/ha. 305 hộ Phú Yên nuôi tôm chân trắng đã lỗ nặng. Phải tìm cách khắc phục các bệnh tôm , thực phẩm nuôi và kỷ thuật nâng cao năng xuất như đã thực hiện ở tỉnh Quảng Ninh năng xuất trung bình 12- 15 tấn , có khi đến 18 tấn/ ha , hay cao hơn nữa ở Hạ uy Di . Nếu không khắc phục được thì phải lo khảo cứu các giống tôm khác thay thế ( như tôm  banana prawn, greasy bock shrimp , kuruma prawn  v.v…) ?                        
  Thách thức lớn nuôi trồng hải sản nước nhà nhắm vào cá biển , tôm hùm , sò ngọc  trai và  rong tảo làm agar. Tiến bộ đáng kể  ở Phú Yên là nuôi lồng tôm hùm - flower spiny lobster  cage. Năm 1999 cả nước chỉ có 7289 lồng tôm hùm, sản xuất 425 tấn. Năm 2005, con số lồng tăng vọt lên  43 516 lồng ( trong số này là 3061 lông tôm để sản xuất tôm con màu trắng samall larvae ), sản xuất 1795 tấn. Trong số này, Phú Yên và Khánh Hòa mỗi tỉnh kê khai có 15000 lồng , trong khi Ninh Thuận nơi khai thác tôm hùm nổi tiếng Bình Ba thời Đàng Trong, chỉ nuôi được 450 lồng. Tháng 11 năm 2009 , riêng xả Xuân Thịnh huyện Sông Cầu cho biết đã thả được 18 3000 lông tôm hùm, thu hoạch hơn 300 tấn tôm thương phẩm ( cần 18 - 24 tháng nuôi lông tôm mới đến mức thương phẩm ). Chức quyền xà Xuân Thịnh,  nơi núi Trường Sơn ra tận biển,  cho biết tôm hùm là một thủy sản nuôi trồng chống đói giảm nghèo hửu hiệu, cho   2000 hộ dân xã. Xuân Thịnh còn phải đối đầu những thách thức chưa giải quyết trọn vẹn như nạn “tôm tặc” cắt lồng trộm tôm ban đêm, thực phẩm nuôi tôm hủm chưa hửu hiệu và rẽ hơn, sản xuất tôm giống tốt ( Bình Định hiện nay chuyên  nuôi lồng tôm hùm sản xuất con giống, không phải Phú Yên  ) và tránh ô nhiễm môi trường tương lai.
 
III- 3 . Tương lai nhắm thêm  nuôi trồng rong tảo biển
 
 Một hướng khác  nuôi trồng hải sản là  nuôi rong - tảo  biển- sea weed, riêng biệt hay xen kẻ các lồng tôm hùm  với các loại trong biển thích hợp . Rong tảo Kappaphycus alvareziii   rất phổ biến ở Phú Yên và các tỉnh Khánh Hòa , Ninh Thuận , Bình Thuận .  Các tỉnh miền Bắc   thích nuôi trồng tảo   Gracilaria verrucosa hơn. Năm 2000, mức sản xuất  Ninh Thuận chỉ 5 tấn, năm 2005 nhảy vọt lên trên 1285 tấn., chưa bằng Khánh Hòa  năm 2005 đạt 1310 tấn.Hoa Kỳ đang khuếch trương nuôi trồng tảo nâu - kelp , vài loài ăn được trong số 300 loài tảo nâu kiểm kê trên thế giới, cột vào các bè lông nuôi tôm hùm sát đáy biển. Rong tảo biển không cần đất, nước ngọt, phân bón hóa học gì cả. Nhiều loại mọc rất mau , dài 60 cm một ngày, không chảy tràn - runoff hay xói mòn - erosion , giúp làm  sạchnước biển sạch các chất dinh dưỡng phế thải quá đáng và hấp thu carbon dioxide, một khí nhà kiếng hâm nóng toàn cầu. Ở Hoa Kỳ vào mùa xuân, dân nuôi trồng rong tảo nâu - kelp , browm algae , cắt rong dài 180- 2 40 cm, nấu sôi mau lẹ để giết vi khuẩn rồi cắt ngắn đi làm thành sợi mì spaghetti hay fettucine ( mì kiểu Ý ) đông lạnh trong bao plastic. Thị trường rong biển thế giới ngày nay là 7 tỉ đô la Mỹ . Mức sản xuất thu hoạch 15 triệu tấn, ở 35 quốc gia ( tài liệu FAO , năm 2007 ) . Trung Quốc là nước sản xuất đại trà rong tảo biển, có khi trồng đầy hết toàn thể vịnh và các cửa sông lớn, nhỏ . Ngoài hai nước Nhật và Hàn Quốc dùng nhiêu loại rong tảo biển làm rau, mì … nấu xúp , trộn thêm vào sushi, Phi Luật Tân cũng đã trộn nhiều loài rong tảo ăn được với mì- noodle  lúa mì .               
 
III - 4 . Không nên lơ là cá nước ngọt , tôm càng xanh, cả cá cảnh , cá ngựa ngoài hải sản thuân dưỡng địa phương hay ở các tỉnh khác
 Phú Yên có lẽ cũng không nên quên cải thiện, phát triễn nuôi trồng thay vì chỉ đánh bắt sò huyết, sò ngoc trai, sò hàu, hải sâm, bào ngư chín lỗ ( củu khổng) , cá ngựa- hippocampus, cầu gai - nhím biẻn , nhiều loại mực,  có thể cả  cá cảnh - ( ornemental fish v.v… Nhất là nuôi cá biển trong ao ( pond ) hay lồng( cage )  những loại có giá trị thuộc nhóm cá mú -grouper ( cà sòng ) Epinephalus e malabarics , Ẹ  bleekeri , Ẹ coloides,  cá hồng -snapper , cá vền - sea bream , cá vược - sea perch … ở ao  dọc bờ biển hay ở lồng trong đầm phá hay biển xa,  gần bờ . Đuổi cho kịp mức sản xuất nuôi trồng các loại cá biển này ở Khánh Hòa hay ở Quảng Ninh. Năm 2005, Quảng Ninh đã có 600 ha cá biển nuôi, Phú Yên chỉ có 25 ha .      .               
Một điểm đáng lưu ý thêm là Phú Yên, tỉnh có nhiều sông suối, hồ  thiên nhiên nhân tạo trên các đập thủy điện, đất ruộng lúa nước. Thế mà ít khi thấy đề cao phát triễn nuôi thủy sản nước ngọt đặc biệt là nuôi cá sông Mê Kông như cá tra , cá ba sa, hoặc cá  rô phi - điêu hồng -tilapia  loại toàn đực cho mau lớn,  và những loại cá tương đương đã được thuần dưỡng trong xứ hay du nhập . Tăng thêm số lượng xuất khẩu ước lượng trên 400 000 tấn cá tra, cá basa, miền Nam đã xuất khẩu, trị giá 1. 5 tỉ đô la Mỹ năm 2009, có phần vượt trị giá cà phê.Ruộng lúa nước Phú Yên cũng còn lạ lung thay,  vắng bong nuôi tôm càng xanh.
 
 IV.  Thực hiện mau le hơn quản trị tốt hơn hệ thống thủy điện , bảo vệ đê điều lụt lội , chấn chỉnh việc cung cấp điện nước , hoàn tất mau le hệ thống giao thông ,hầu tiến mạnh   thực hiện  chiến lược đầy tham vọng đô thị hóa - thị trấn hóa tỉnh nhà
. 
            IV -1 Điện, nước
 
* điện
 
              Đập thủy điện thành lập trước tiên năm1999 là đập sông Hinh, một phụ lưu sông Ba, công xuất 72  000 kw . Đập lớn hơn là đập Sông Ba Hạ ( Lower Sông Ba Dam ) , thật sự gồm 5 đập nhỏ gom lại thành một hồ  lớn chứa 349.7 triệu m3 ( cả năm là 5.7 tỉ m3 ) ở huyện Sơn Hòa( Cũng Sơn ) . Chinh vì rắc rối không cùng  quản lý được các đập vệ tinh đập Sông Ba Hạ thuộc hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc ( có thể là thiếu nhân viên chuyên môn , chỉ có 35 %  đập thủy điên   được đến duyệt xét tình trạng hồ đập mỗi năm, chưa có Ủy Ban quốc gia hay liên tỉnh phối hợp quản lý ngoài đập Hòa Bình… ), đập đã xã lũ khi sợ đập vỡ tháng 9 năm 2009,  trùng hợp với triều cường và mưa bảo lũ lụt Marinae, gây nên tang tóc chết người ở vùng hạ bạn , bờ biễn Phú Yên. Đập Ba Hạ công xuất   220 000 kw , dự trù xong cuối năm 2008 , không biết nay đã hoàn tất chưa. Đập Ea ( H ) Nang , một chi nhánh sông Ba, phía trên sông Hinh  là một đập  công xuất 66 000 kw,  khởi đầu xây cất năm 2005. Ngoài ra còn có một số đập thủy điện nhỏ hay hồ chứa nước tưới tiêu đã khánh thành hay đang làm,  như đập Đồng Tròn ( Tuy An ) các  đập Kỳ Lộ, Kỳ Châu , các trạm thủy điện La Hiên 1, La Hiên 2- La Cách   ( Đồng Xuân ) , đập Suối Cái ( Phú Hòa), Tân Hiền ( Sơn Hòa ), Biển Hồ , Sông Mới ( Đông Hòa ) , Lò Chai ( Phú Hòa ) đập thủy điện Đồng Cam v.v… . Cho đến nay 100 % các xã trong tỉnh đã được cung cấp điện, nhờ nối liền với mạng lưới điện quốc gia 110 KV . Nhưng mang lưới  phân phối điện nhất là về nông thôn chưa hoàn chỉnh, điện đắt hơn điện thị trấn ( trong khi nông thôn nghèo hơn), có thể làm xã dân than phiền , chống đối. Thủy điện Phú Yên có thể cạn kiệt tương lai gần, cần xúc tiến nghiên cứu  nhà máy nhiệt điện than đá nguồn nội địa cở lớn đã thiết kê ở nhiều nơi trong nước, loại sạch, dùng phát thải CO2 nuôi các dòng tảo tuyễn  chọn ,  theo kỷ thuật trích dầu diesel rẻ tiền không đắt hơn diesel dầu lữa , xác bả dư thừa tảo làm thức ăn động vật, như Công ty Exxomobile đang thiết lập ở bang Colorado , Hoa Kỳ . hhay nhiệt điện khí dầu các lô thuộc bồn Phú ( Yên ) - Khánh ( Khánh Hòa ) các công ty Ấn Độ  ( hảng ONGC  lô 127  đào biển sâu , Hoa Kỳ ( Chevron Texaco lô 122 ) , Nhật Bổn ( hai hảng Idematsu và Teikoku lô ? ) đang khoan  giếng tìm kiếm dầu- khí. Ngoài thử nghiệm điện mặt trời, có lẽ nên xúc tiến  Đan Mạch đầu tư   ( 20 % điện quốc gia này do tua bin gió tạo ra ) thiết lập điện gió ngoài khơi hải phận Viêt Nam . Sau khi duyệt lại  khả năng tài chánh, an toàn, an ninh quốc phòng… nước nhà, có khi cả điện nguyên tử  nữa trong tương lai xa,  song song với dự án Ninh Thuận, vì Phú Yên gần mỏ uranium (? ) Kontum hơn, vịnh Vũng Rô ( gần Đèo Cả,) Xuân Đài ( Sông Cầu , phía Nam đèo Cù Mông ) sâu , kín gió nhiều, ghềnh đá, nhiều tiểu đảo có thể là căn cứ tàu ngầm nguyên tử , Việt Nam dự tính mua của Nga, hầu bảo vệ hải phận biển Đông nước nhà, đã bị xâm phạm nặng nề từ năm 1973- 74 . ( hình như đã có các dự  án xây dựng hầm , trại lính , bến cảng cho Hảm Đội 2, tuần tra, tìm kiếm, cứu vớt tàu thuyền ở Tuy Hòa và Đồng Xuân, nhưng không biết đã đủ sức hoạt động bảo vệ Hải phận Đặc thù Việt Nam như đội Hoàng Sa , Bắc Hải thời Đàng Trong và thời vua Minh Mạng chưa ? )  
    
* Nước
           
Phú Yên đặt chỉ tiêu thực hiện năm 2020 đủ nước tưới tiêu cho 93 000 ha ruộng vườn,  khoảng 65 % đất trồng trot. Nhắc lại là đập thủy nông Đồng Cam chắn ngang sông thời Pháp thuộc , trùng tu lại thời mở đầu Đệ Nhất Cọng Hòa miền Nam chỉ dự trù hế thống tưới 7- 10 000 ha. Như vậy phải kiện toàn hay xúc tiến công tác dẫn thủy các hồ đập thủy điện Sông Hinh và sông Ba Hạ; nâng cao xử dụng dung lượng các hồ dự trữ thủy điện Sông Hinh, Đồng Khôn, Đồng Tròn, Phú Xuân và Xuân Bình; nâng cấp hay trùng tu các hồ, đập bị xói lỡ , xây cao bờ đê  bị nguy cơ đất chuồi bảo tố lấp cạn( Đồng Xuân trên sông Kỳ Lộ và Phú Hòaên sông Ba ) ; xây dựng thêm nhiều hồ đập nhỏ thủy nông; đào thêm kinh  rạch hệ thống tưới tiêu chưa có, tương tự các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nối liền lưu vực 50 sông tỉnh nhà; bảo đảm cung cấp nước ngọt cho dân cư sống tại vùng hai sông Bàn Thạch và Sông Cầu. Công tác khẩn cấp hơn là nâng cấp hay xây dựng bờ đê, hệ thống bờ kênh rạch mới , nâng cao bờ đê sông suối các đập hồ cũ,  đê bờ biển vì biển có thể dâng cao thêm vì hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Tóm lại làm tất cả mọi công tác , công trình vững bền hơn, chống tai ương thiên nhiên, bảo lụt bất ngờ , nước lũ cấp kỳ, triều cường v.v… hiện còn  khiếm khuyết., thô sơ .     
           
 *Hệ thống cung cấp nước uống .
             
Vì mãi lo chiến tranh gần 40 năm trời, Việt Nam là một trong những sô quốc gia tụt hậu nhất Á Châu về cung cấp nước sạch cho dân chúng .Theo chỉ tiêu, năm tới 2010, mọi thị trấn Phú Yên sẽ đều có đủ nhà máy nước cung cấp nước sinh hoạt hàng ngày và 80 % dân nông thôn sẽ có nước sạch. Hệ thống cung cấp sẽ phải cung cấp  đầy đủ cho mọi người dân gian Phú Yên, năm 2020. Như vậy phải hoàn tất hệ thống cung cấp nước cho thị xã Tuy Hòa. tăng cường khả năng các nhà máy nước các thị trấn La Hai ( Đồng Xuân ) Hai Riêng ( (Sông Hinh ), Chí Thành ( Tuy An ), Cũng Sơn ( Sơn Hòa ) , Sông Cầu và Phú Hòa đến mức 8000 - 10 000 m3 mỗi ngày. Xây cất nhà máy nước mới Hòa Vinh dung tích   8000- 10 000 m3 , các nhà máy dung tích 3 000 - 5000 m3 ở các thị trấn mới như Phú Thứ, Sơn Long ( Vạn Hòa ).  Tổng cọng xây cất nhà máy mới dung tích 50 000m3 / ngày năm 2010 , 200 000 m3 / ngày đén năm 2015 , và 300 000 m 3/ ngày đến năm 2020 , vì phải cung cấp nước cho vùng Kinh tế Nam Phú Yên và các nơi khác.
 
*Thoát thủy và vệ sinh môi trường
 
Hoạch định phát triễn Phú Yên cho đến năm 2020 đáng khích lê là rút kinh nghiệm, đặt ra các vấn đê  xây dựng xã hội đô thị hóa này trước hay cùng lúc  công tác xây dựng dịch vụ, công nghệ. Trước tiên nên kể ra việc nâng cấp hệ thống thoát thủy, ống hay kênh. Thiết lập riêng biệt hệ thống thoát nước thải đời sống hàng ngày và nước mưa. Buộc các công viên công nghệ, bệnh viện và các cơ sở sản xuất phải đặt các trạm máy bơm thoát thủy và chửa trị cho sạch nước phế thải. Mọi chất lỏng phế thải nguy hiểm phải được chửa trị tại chỗ, trước khi cho chảy ra hệ thống chung. Bảo đảm 100% các thị trấn phải có riêng biệt cho mình hệ thống thủy, hệ thống nước thải và hệ thống chửa trị rác rưới. Buộc cơ sở sản xuất  phải có đầy đủ100 % hệ thống trị chất phế thải riêng biệt, có xe hơi hốt rác đưa về bải đổ rác công cọng.  
 
IV- 2. Hệ thống giao thông
 
* Đường bộ
 
Muốn tiến triễn mau lẹ , Phú Yên cần hoàn tất việc nâng cấp, cận đại hóa ba trục lộ chính là quốc lộ Nam Bắc 1A từ đèo Cù Mông phía Bắc giáp ranh Bình Định đến đèo Cả phía Nam giáp ranh Khánh Hóa, trong tỉnh nhà dài 118 km . Cũng như quốc ;lộ số   25 ( số 7 cũ ? ),  từ Tuy Hòa theo thung lũng Cheo Reo dọc dòng chánh sông Ba đến Mỹ Thạch - tỉnh Gia Lai nối đường 14 xuống Ban Mê Thuột hay trở lên Kontum, để qua Lào, Cam Bốt, Thái Lan, ngang qua Sơn Hòa ( thuộc Phú Yên ) , Phú Túc , Phú Thiện, Chư Sê ( cả ba thuộc Gia Lai - Pleiku ); đường liên tỉnh số 645 nối Đồng Xuân đến đường quốc lộ 26 Ninh Hòa - Ban mê Thuột ở giữa Khánh Đông và Khánh Dương - M’Drak qua các thị trấn mới cũ Phú Hội, Sơn Hòa, Sông Hinh và khi vao địa phận Đăk Lak thì chạy sát bên HònVọng Phu  ( Là Mère et L’ Enfant theo tiếng Pháp ) - Chư Hmu, cao 2051, nhìn thấy được trên Đèo Cả, các khúc đoạn dọc bờ biển Biển Đông, khúc đoạn   phía tây và các tỉnh lộ. Hệ thống đường xá tỉnh đến các thị trấn, các huyên lỵ đã được trải nhựa , cũng cố hay trải đá  xe hơi chạy được  đến xã. Tuy nhiên còn phải xây dựng thêm nhiều đường mới từ xa lộ cao tốc Nam Bắc khi hoàn thành và quốc lộ 1A   dẫn tới các công viên công nghệ, các cụm du lịch sát bờ Biển Đông, đầy dủ trạm ga xe cuối cùng, bến đậu xe hay ngưng xe. Cố gắng đổ bê tông mặt đường 90 - 100% các huyện lô và  đường liên thị trấn. Có lẽ nên làm  dự án đường hầm xa lộ và xe lữa cao tốc ( ? ) dưới đèo Cù Mông và đèo Cả ,sớm hơn dự định và hoàn tất thực hiện cũng phải sớm hơn , vi nay Việt Nam đã học hỏi kinh nghiệm, kỷ thuật tân tiến  hoàn thành  đường hầm Hải Vân.
                   
                       * Đường sắt ( xe lữa ) hàng không, cảng biển v.v…
              
Không rỏ khi nào xây dựng được đường sắt cao tốc Nam Bắc,  dài 120 km trong  địa phận tỉnh nhà, qua các ga Chí Thành, Tuy Hòa , Phú Hiệp. Tuy đã khởi công nghiên cứu giai đoạn 1, làm khúc nối  khu kinh tế Vân Phong - Khánh Hòa với Phú Yên , xem đó như là trọng tâm đường sắt lên Tây Nguyên. Cũng như đang nghiên cứu làm đường sắt Phú Yên - Tây Nguyên qua tận Cam Bốt, Lào và Thái Lan.
Đã nâng cấp xây dựng phi trường dân sự. Tuy Hòa, mỗi tuần 3 chuyến bay đến Sài Gòn, Hà Nội và Đà Nẳng. Đang cố gắng tìm cách biến phi trường Tuy Hòa thành sân bay quốc tế . Cũng như đang cố tìm đầu tư ngoai quốc thiết lập một   phi truờng mới phía Bắc Phú Yên, cũng cố phát triễn công nghệ, du lịch địa phương .
Theo chiều hướng phát triễn đó, Phú Yên cũng đang tân tiến, hoàn tất quản lý hửu hiệu hơn cảng biển Vũng Rô ( dự trù cho tàu 10 000 tấn cập bến  có lẽ hơi khiêm tốn , e không thõa mãn nổi yêu cầu tương lai chăng ? ), nghiên cứu xây dựng những cảng nước  sâu mục đích đặc biệt, gồm luôn cả các cảng Hòa Tâm, Xuân Phương, Xuân Thịnh, An Hòa .
Hệ thống điện thoại, viễn thông,  truyền thông đã được nối mạng vói mạng quốc gia, nên  liên lạc truyền thông giao dịch với các tỉnh khác và các quốc gia trên thế giới đã thuận tiện. Tính đến 2005 cứ 100 dân cư, Phú Yên có 10.4 máy điện thoại, mạng di động Vinaphone và Mobiphone. Không rỏ năm 2010 sẽ đạt mấy phần chỉ tiêu là 40 máy/ 100 dân và 60 máy /100 năm 2020 . Cũng như chỉ tiêu   15 người / 100 dùng Internet   năm 2010 và 35- 40 /100 năm 2020; và 100% gia cư có máy  nghe  nhìn -audiovisual năm 2020.        
 
IV .3 . Chương trinh đô thị - thị trấn hóa Phú Yên cũng nhấn mạnh đáng kể đến giáo dục , y tế, xã hội ( bệnh viện,  sân vận động  … )     
 
Chương trinh “đầy tham vọng “ của Phú Yên xây dựng nâng cấp   thành phố Tuy Hòa từ đô thị cấp 3 lên cấp 2, thành trung tâm sinh thái, chức năng chánh trị kinh tế văn hó , khoa học kỷ thuật, du lịch, dịch vụ, điểm trọng tâm  các phương tiện giao thông trong tỉnh, hành lang Dông Tây lên Tây Nguyên  qua Bắc Cam Bốt và Nam Lào,  hay đến các tỉnh duyên hải miền Nam Trung Bộ. Tuy Hòa năm 2005 đã có  150 000 người, diện tích thị xã là  106 km2  . Năm 2002 đã được thừa nhận là đô thị cấp 3 ( theo nghị định chưa cập nhật của hội đồng bộ trưởng năm 1990) và năm 2005 chánh phủ đã chấp thuận tỉnh quản lý thị xã Tuy Hòa . Hy vọng sau khi điều chỉnh kế hoach đô thi hóa 2005- 2010 và 2010 - 2015, 2015 - 2020 chiếu theo ti lệ phát triễn  mói mẽ công nghệ nông lâm, hải sản, du lich, công nghệ lọc dầu và phức tạp hóa học dầu lữa, Tuy Hòa mau đạt tiêu chuẩn đô thị cấp 2 trung ương quản lý như Sài Gòn , Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẳng hơn là dự trù vào năm 2015-16. . và sẽ nằm trong tầm đâu tư đề cao thiết lập một siêu đô thị sáng tạo- creative megacity ( ? ) của hảng Galileo International group căn cư tại Hoa Kỳ, đầu tư giai đoạn 1 khoảng 1.6 tỉ đô la Mỹ. Sông Cầu sẽ trở thành đô thị cấp 4 năm 2010 , huyện lỵ Đông Hòa   thành đô thị tỉnh cấp 4 năm 2019- 2020 ; thiết lập một thi.trấn mới ở Phú Thứ - ( Tuy Hòa ),   Hòa Vinh , Hòa Hiệp Trung thành hai phường thuộc thị trấn cấp tỉnh huyện lỵ Đông Hòa, thị trấn huyện lỵ mới Vạn Hòa và thị trấn An Mỹ ( Tuy Hòa ). Hai thị trấn Cũng Sơn ( Sơn Hòa ). Sông Hinh ( Hai Riêng ) cũng dự tính cải tiến thành đô thị cấp tỉnh sau năm 2020
Đáng kể thêm là việc biến đại học Phú Yên  thành đa  khoa nhiều ngành, nhiêu đẳng cấp, có cơ sở khảo cứu khoa học, kỷ thuât cho toàn vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, cho tỉnh nhà. Hổ trợ xây cất cải  biến đại học số 3 và đại học cộng đồng thành viện đại học , nâng cấp trung tâm đào tạo nhân viên ngành ngân hàng, cải biến trường y tá thành trường y khoa, sau đó thành đại học y khoa, thuộc Viện Đại học mới Phú Yên. Xin nhớ rằng hiện nay 47 % chức quyền công chức  chỉ  mới học cấp trung học, 24.64 % cấp đại họ , 0.26% cấp cao học và chỉ có 15,6% biết ngoại ngữ.
Năm 2009, chắc sẽ làm xong tổng y viện trung ương tỉnh. Nay mai sẽ xây cất xong tổng y viện trung ương vùng,. xây xất ở thị xã Tuy Hòa các trung tâm y khoa chuyên biệt như bệnh viện khoa sản , khoa nhi , nhãn khoa và khoa da .Đáng chú ý thêm là Phú Yên dự liệu tạo điều kiện thuận lợi mở các viện đại học , trường dạy nghề tư nhân ,  cũng như các bệnh viện tư, phẩm giá cao . Xây cất một sân vận dộng lớn cũng ởTuy Hòa,  .một nhà hát lớn tỉnh ( ở đâu ? )  , cũng cố những cơ sở văn hóa bảo tàng viện, các vị trí di vật, di tích lịch sử, thư viện tỉnh, nhà triễn lãm hội thảo- hội nghị tân tiến,  nhà phát triễn nghệ thuật văn chương , văn hóa .…      .  
Trong vấn đề phát triễn, chánh phủ và tỉnh nhà cũng lưu tâm đến  quốc phòng và an ninh, thiết lập các cơ sở phòng thủ diện địa khắp nơi xung yếu, huấn luyện quân đội và  dân quân sẳn sàng ứng chiến khi nước lâm nguy . Vì vậy có thể xem Phú Yên đang “ đổi mới “ cận đại hóa quan niệm “ dinh điền “ , quan niệm “dinh Trấn Biên”  thời chúa Tiên , chúa Thượng, chúa Hiền… hậu cần Duyên Hải Nam Trung Bộ chống địch lăm le đe dọa xâm lăng,   như hậu cần Thanh -Nghệ -Tinh, sau khi mất Thăng Long , thời nhà Trần, nhà Lê được chăng ?   
 
V -   Phát triễn du lịch
 
Tuy có nhiều danh lam thắng cảnh sông núi , biễn, di tích liịch sử như đã nêu ra ở Phần I Khái quát, ngành du lịch Phú Yên mãi đến năm 2001, vẫn không được xếp vào những vùng du lịch chính Việt Nam. Có lẽ vì sau 1975  quân chánh cai trị đương thời tỉnh Phú Khánh ( Phú Yên nhập vào Khánh Hòa )  đã dành ưu tiên cho Khánh Hòa - Nha Trang ? Sự việc đã bắt đầu thay đổi năm 1989 , khi Phú Yên tách rời Phú Khánh, thành tỉnh riêng biệt. Lẽ dĩ nhiên là Phú Yên cũng cổ, xây dựng hạ tầng cơ sở cho du lich sinh thái, cảnh quan thiển nhiên và môi trường tự nhiên . Phía Bắc là  bải biển Long Thủy - Mỹ A , đầm Ô Loan, Hòn Chúa, Hòn Yến, núi Chùa Đá Trắng, vịnh Cù Mông và vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài đang trình Cơ Quan Giáo Dục Văn Hóa Quốc Tế  UNESCO để được xếp vào hạng những vịnh đẹp  nhất thế giới. Năm 2008 , Phú Yên đã chấp nhận công trình Phức Tạp Du lịch Nghĩ mát  Cao Cấp Gành ( Ghềnh ) Đá Đia, do một công ty Brunei dự liệu đầu tư ( ? )  3.4 tỉ đô la Mỹ,  dựng lên một khách sạn 5 sao có 4300 phòng , một khách sạn 4 sao có 8900 phòng , 160  biệt thự -villa lộng lẫy và một sân gôn 36 lỗ. Chánh phủ cũng đã chấp thuận làm một xa lộ cao tốc - express way nối liền sân bay Tuy Hòa và Phức Tạp Gành Đá Đia. Hảng Vietstar Resort - Spa cho biết đã có 30 triệu đô la thiết lập nhiều biệt thự , những tiên nghi cận đại cho một trung tâm  nghĩ dưỡng và một hệ thống cáp nối Đồi Thơm và Bải Xếp   Công Ty La Perla International Việt Nam Company (La Perla - Tashun)  cũng đang thực hirện  trung tâm Nghĩ dưỡng Ẩn náu - Hideway Resort Bải Trạm, tăng gia tư bản đầu tư từ 10 lên 80 triệu đô la năm 2009 . Công ty Dịch vụ Thương mãi và Chuyên chở Thuần Thảo cho biết đã thực hiện xong một trung tâm nghĩ dưỡng và một khách sạn 5 sao ở thị xã Tuy Hòa, đón chào du khách ngoại quốc. Công ty Thụy sĩ Tradco Engineering & Construction SA cũng dự định xây một khu nghĩ dưỡng dọc bờ biển, đầu tư 1,5 tỉ đô la lập một vùng biệt thự xa hoa , nhiều thương xá, một sân gôn( cù ) và một khách sạn 5 sao. Phía Nam là những khu du lich kinh doanh  ( các làng  tiểu công nghệ , các nơi đánh bắt nuôi trồng ăn nướng chiên xào thủy sản) khảo sát, mạo hiểm  Vịnh Vũng Rô cách thành phố Tuy Hòa 25 km , ngay trên quốc lộ 1A, ngoài cảng tàu , còn có núi Hòn Bà vây quanh cảnh quan ngoạn mục. Dọc theo bờ biển Vũng Rô còn nhiều bải biển đẹp và hấp dẫn khác, tỉ như bải biển Hòn Mua. Thứ đến là Khu  Bảo tồn Bắc Đèo Cả, một khu rừng bảo vệ kéo dài qua tới Hòn Vọng Phu. Rừng bảo tồn này rộng 8780 ha, giàu thực vật gồm 191 lòai định danh, động vật gồm 22 loại muông thú và 55 loài chim. Trong đó có nhiều loài quý hiếm như chim trĩ, khỉ mặt đỏ, gấu Tây tạng, gấu Mã Lai, tê tê-pangolin và beo (báo). Ngoài du lịch thám hiểm núi, chánh quyền cương quyết, song song với du lịch lịch sử và ngắm cảnh hùng vĩ, phát triễn du lịch văn hóa các làng xã, huyện các dân tộc địa phương, đặc biệt là trục nối vùng bờ biển cùng Tây Nguyên. Tạo dựng hạ tầng cơ sở khuyến khích du khách nội địa thăm viếng cao nguyên Vạn Hòa, các đập hồ Ba Hạ và Sông Hinh. Cố gắng khắc phục mọi khó khăn để lảnh vực du lịch - dịch vụ năm 2010 chiếm 37 %  tổng lợi tức tỉnh, vượt  nông nghiệp dự tính là  24 %  và năm 2020 đạt tỉ xuất 43 % ,  bỏ xa hẳn tỉ xuất nông nghiẹp, chỉ còn 10 %. .   
          
VI - Phát triễn công nghệ
           
Mức dự liệu phát triễn công nghệ Phú Yên có phần cao hơn dịch vụ, 38.5 % năm 2010 và 47 % năm 2020 .  Phú Yên đã thiết lập 3 khu công nghệ tập trung: Hòa Hiệp , An Phú và Đông Bắc Sông Cầu. Khu An Phú trong phạm vi thị xã Tuy Hòa, thành lập năm 2002, năm 2005 đã thu hút 25 dự án đầu tư nhỏ, trị giá 2.26 triệu  tư bản ngoại quốc và 149 tỉ đồng Việt Nam. Khu công nghề Hòa Hiệp đã có nhà máy làm gia cư tiền chế , nhà máy làm soong chảo, nồi niêu bếp núc và sản phẩm kim khí điện, nhà máy làm động cơ điện và bơm cơ khí, chế biến tre mây - ruttan xuất khẩu. Tuy An chuyên làm bột cho ngành lọc dầu và sản phẩm từ  đá tảo sò - diatomít,. Đồng Xuân có nhà máy làm gạch sàn nhà thạch cương-granit hồng vân.. Sông Cầu có nhà máy đóng tàu thủy , Sông Hinh có dự án làm bột giấy . Tuy Hòa,  ngoài công nghệ biến chế nông ngư sản , còn  có dự án nói rông nhà máy làm ” bia- la de Saigon “…. Đáng kể nhất là tháng 10- 2009 , chánh phủ thiết lập khu Công Nghệ Quốc Gia thứ 15  Nam Phú Yên, vùng bờ biển rộng trên 20 700 ha, gồm một vùng miễn thuế - duty free , một phức tạp công nghệ , cảng biển, cơ sở du lịch và du lịch sinh thái và một khu đô thị - urban area, với ý đồ làm mô hình phát triễn cho cả vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, mở rộng cửa ngỏ Biển Dông nước nhà lên Tây Nguyên, Nam Lào,  Đông Bắc Cam Bốt và Thái Lan.
Trong khi năm nay,  đầu tư ngoại quốc gia giảm mọi nơi khác trong nước, vì suy thoái kinh tế toàn cầu, Phú Yên lại lại nhận thêm tư bản đầu tư ngoại quốc.Tổng cọng mấy năm gần đây, Phú Yên đã hút dẫn hơn 285 dự. án, tổng số tư bản đăng ký là 17 645 tỉ đồng VN và 8 tỉ đô la , trong số này gồm luôn 34 dự án ngoại quốc đầu tư. Đưa Phú Yên từ hạng gần thấp nhất lên hạng thứ 7 trong số 10 tỉnh hạng đầu nước nhà, khi bộ Kế hoạch và Đầu tư duyệt xét 20 năm đầu tư ngoại quốc ở Việt Nam, từ năm 1988 đến năm 2008. Năm 2009 và 2010,  Phú Yên đã liệt kê  34 dự án chánh yếu  kêu gọi tư bản, ước lượng lên đến 3.86 tỉ đôla. Mỗi dự án cần chừng 5- 30 triệu đô la , tụ điểm vào công nghệ tơ sợi và áo quần, giày dép , chế tạo đồ sửa bò, trồng lại vườn dừa và chế biến dừa. Nhưng tựu trung quan trọng nhất là nhà máy lọc dầu thứ ba ở Vũng Rô , trị giá 1.7 tỉ đô la ,sản xuất 4 triệu tấn một năm. Năm 2007 đã có công ty Technostar Management LTd căn cứ tại Anh Quốc và công ty Nga Telloil  được giấy phép đầu tư nhà máy lọc dầu Vũng Rô. Phú Yên cũng kêu gọi đầu tư vào Phức tạp Naphta cracking và xây dựng khu công nghê hóa học dầu lữa Hoa Tâm, trị giá tổng cọng lên đến 11 tỉ đô la Mỹ .
 
 ( Irvine , Ca Li - Hoa Kỳ ngày 13 tháng 12 năm 2009 )  

Trở lại Trang Khoa Học
 
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 851815 visitors (2209239 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free