Lên mạng ngày 6/8/2011
CHUYỆN CÁ TÔM VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Mấy năm gần đây đồng bào Việt Nam sống tại hải ngoại vẫn thỉnh thoảng có nghe nói đến vấn đề thủy sản nhập cảng từ Việt Nam có khi bị nhiễm vi khuẩn Salmonella, kháng sinh hoặc hóa chất cấm. Nào là tôm bị nhiễm Chloramphenicol, cá basa bị nhiễm Fluoroquinolone, v.v…Thường nhất là vụ cá tra (Sutchi catfish, Pangasius hypothalmus) và cá basa (yellowtail catfish, Pangasius bocourti) bị nhiễm chất Malachite Green. Gần đây hơn thì có vụ phi lê cá basa bị nhiễm kháng sinh Enrofloxacin trên mức quy định.
Mời xem vidéo: Cá Basa đồng bằng sông Cửu Long (Dirty waters, Dangerous fish-Vietnamese Pangasius)
***
Tại Hoa Kỳ, vấn đề cá basa Việt Nam nhập cảng đang gây nhiều sóng gió vì dụng phải quyền lợi của ngành nuôi cá mèo catfish của Mỹ. Dưới áp lực của kỹ nghệ catfish, năm 2002, chánh phủ Hoa Kỳ không cho phép cá basa Việt Nam được gọi là catfish và đến năm 2009, cá tra Việt nam được họ đặt thêm tên mới là Swai.
Two varieties of Vietnamese catfish subject to the new regulations are Swai (Tra) and Basa. Both varieties are widely farmed in Vietnam, and many consider the fillets a delicacy, as they are wider and thinner in appearance than catfish farmed by U.S. catfish farmers.
In 2002, the Federal Government ruled that Vietnamese varieties of Basa fish could not be called catfish.
In 2009 the named changed to Swai (an alternate name for Tra)
Regardless of name, Vietnamese Swai and Basa are not subject to the same inspections as other imported catfish because these fish are not considered catfish. (Food Safety News. Does imported catfish pose a health risk?)
(Chef’s resources- Is Vietnamese Swai and Basa safe?)
Được biết từ hơn 10 năm qua tại quê nhà phong trào nuôi cá nuôi tôm để xuất cảng đã nở rộ lên khắp các tỉnh miền Nam, đặc biệt nhất là tại Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ...
Cá tôm bị nhiễm chất cấm là điều làm nhiều người ở trong nước cũng như ở hải ngoại rất lo ngại, nhưng rồi mọi người cũng quên đi và vẫn tiếp tục…ăn như thường.
Tháng Nov/2005, đài truyền hình CTV và báo chí Canada đã loan tin chất Malachite Green (MG) hay Vert Malachite, là một loại hóa chất cấm đã lây nhiễm vào thủy sản ngoại nhập, bán tại các chợ vùng Vancouver và Richmond thuộc tỉnh bang British Columbia, Canada.
Có chín mẫu đã được đài CTV cho gởi đi xét nghiệm tại một phòng thí nghiệm độc lập. Tất cả gồm có cá rô Phi Tilapia, lươn, đến từ Trung Quốc và hai mẫu cá basa đến từ Việt Nam. Kết quả thử nghiệm cho biết có dư lượng Malachite Green trong cá basa Việt Nam...Trên nguyên tắc, cá bị nhiễm hóa chất cấm không thể được bán ra cho người tiêu thụ nhưng không ai biết tại sao lại có sự sơ xuất (trong phía Việt Nam lẫn phía CFIA Canada) trong vấn đề kiểm soát như thế.
Theo phóng viên đài CTV, thì cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA) đã biết rõ tình hình này từ lâu rồi vì trong năm 2005, CFIA đã cho thử nghiệm lối 9% cá nuôi đến từ Việt Nam và kết quả cho thấy 43% mẫu cá xét nghiệm có dương tính với chất Malachite Green. Đây là một kết quả rất nghiêm trọng!.
Được biết 80% tôm cá nuôi, nhập từ khu vực Á châu đều xuất phát từ Trung quốc và Việt Nam. Canada đã đặt Trung quốc (tháng 8/2005) và Việt Nam (tháng 9/2005) vào trong diện phải chịu sự kiểm soát toàn diện (surveillance intégrale). Tất cả các lô thủy sản nhập từ hai quốc gia nầy bị lưu giữ để được thử nghiệm 100%, sau đó nếu kết quả tốt mới được phép bán ra cho người tiêu thụ...CFIA cũng đã gởi văn thư chính thức đến hai đối tác Việt Nam và Trung quốc yêu cầu họ phải tìm biện pháp thích nghi và cương quyết hơn để giải quyết tình hình Malachite Green ở trong cá xuất khẩu.
Tôm cá VN nhiễm MG cũng đã được thấy bán tại Hoa Kỳ, Úc Châu và tại các quốc gia thuộc khối liên hiệp Âu Châu.
Vì thế đối với thủy sản nhập từ những khu vực khác của Á Châu, CFIA cho gia tăng thêm số thử nghiệm lên từ 5% đến 20%.
Canada đã làm gì?
Cơ quan CFIA có trách nhiệm kiểm soát tất cả thực phẩm nhập cảng vào Canada.
Phương pháp và tần số xét nghiệm được dựa trên nguyên tắc thẩm định mức độ nguy hiểm (évaluation de risques) của sản phẩm và cũng tùy theo loại hàng hóa, tùy theo quốc gia xuất khẩu và hồ sơ của nhà xuất khẩu trong quá khứ.
Ngày 17/7/2006, Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm CFIA đã ký một thỏa thuận với Cục Quản Lý Chất Lượng An Toàn về Thú Y và Thủy Sản, Bộ thủy Sản VN (National Fisheries Quality Assurance and Veterinary Directorate of the Vietnam Ministry of Fisheries, NAFIQAVED). Theo văn kiện này, phía VN phải chịu trách nhiệm kiểm soát việc sản xuất và chế biến thủy sản xuất cảng sang Canada, phải cấp giấy chứng nhận sản phẩm đã được sản xuất trong điều kiện vệ sinh, đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi và quy định về tiêu chuẩn của Canada về thủy sản nuôi, mà đặc biệt là sản phẩm không được chứa Choramphenicol, Nitrofuran, Malachite Green và Leucomalachite Green (riêng 2 chất nầy không được phép có dư lượng trên 0,5 ppb).
Ngày 30 Nov 2006, Canada đã đưa ra quy định mới là kể từ 1/1/2007 tất cả thủy sản nuôi và sản phẩm đến từ VN đều phải chịu sự kiểm soát toàn diện 100%. Nếu có giấy chứng sức khỏe (Health certificate) do NAFIQAVED cấp và đạt tiêu chuẩn tốt trong quá khứ thì chỉ có 5% sản phẩm bị xét nghiệm mà thôi.
Ngoài ra tất cả sản phẩm có thể bị xét nghiệm bất chợt (random) về vi trùng học, hóa chất, kháng sinh, chất phụ gia và về các biến đổi mùi vị, xúc giác (sensory).
Nhiễm Malachite Green ở thủy sản nuôi (thí dụ Cá Basa) là vi phạm thường hay được nói đến nhiều nhất.
Canada xét nghiệm thủy sản nhập cảng như thế nào?
Bất luận quốc gia xuất phát.
Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada CFIA xét nghiệm thủy sản nhập cảng dựa vào :
- Fish Products Inspection Manual-Policies & Procedures
-CFIA Aquaculture Therapeutant Residue Monitoring list-Appendix 1 (A)
*Vi trùng học(Microbological hazards)
-E.coli: Tất cả các loại thực phẩm ăn liền (ready to eat) và sò hến (raw bivalve molluscs).
-Listeria monocytogenes: Tất cả các loại thực phẩm ăn liền.
-Salmonella spp: Tất cả các loại thực phẩm ăn liền, sò hến.
-Staphylococcus aureus: Tất cả thực phẩm ăn liền.
-Vibrio spp: Sò hến.
*Sự hiện diện của hóa chất(chemical hazards)
1)Những chất lây nhiễm từ môi sinh (Environmental Contaminants)
-Mercury (thủy ngân): Các loại cá lớn săn mồi (large predatory fish), cá nước ngọt nhưng không phải cá nuôi (freshwater fish not aquaculture), các loại cá ăn sát đáy nước (bottom feeder).
-PCBs (Polychlorinated biphenyls): Cá nhiều mỡ (fatty fish), cá nước ngọt (freshwater fish).
-Dioxins, Furans and Dioxins Like PCBs: Cá nhiều mỡ (fatty fish), cá nước ngọt (freshwater fish).
2)Marine Toxins (độc tố thiên nhiên)
-DSP (Okadaic Acid), PSP (Paralytic Shellfish Poisoning), ASP (Amnesic Shellfish Poisoning)/Domoic acid: Tất cả sò hến.
-Ciguatoxin: Các loại cá ghềnh nhiệt đới (Tropical Reef Fish).
3)Dược phẩm dùng để nuôi thủy sản (aquaculture drugs)
Amphénicols:
-Chloramphenicol, Thiamphenicol, Florfenicol, Florfenicol Amine.
Tetracycline:
-Oxytetracycline, Tetracycline, Chlorotetracycline.
Macrolides:
-Erythromycin
Sulfonamides:
Sulfadimethoxine - Sulfadiazine - Orthmethoprim - Sulfanilamide - Sulfacetamide - Sulfapyridine - Sulfaguanidine - Sulfadiazine - Sulfamethizole Sulfathiazole - Sulfamerizine - Ormetoprim - Trimethoprim - Sulfamethoxazole - Sulfamoxole - Sulfisoxazole - Sulfamethizole - Sulfamethazine - Sulfamethoxine -Sulfamethoxypridazine - Sulfamonomethoxine - Sulfaquinoxaline –
Fluoroquinolone:
-Ciprofloxacin, Danofloxacin, Enrofloxacin, Sarafloxacin
Benzoylureas:
-Teflubenzuron
Quinolones:
-Flumequine, Oxolinic acid
Nitrofurans:
-Furataldones, Furazolidone, Nitrofurantoin, Nitrofurazone
Avermectins:
-Enamectin benzoate, Ivermectin
Triphenylmethane-Dye:
-Gentian violet, Malachite green
3)Additives (chất phụ gia):
-Sulphites: Các loại tôm tép sống/chín/đóng hộp (Raw/cooked/canned crustaceans).
Cá khô, sò sống/chín/đóng hộp, bào ngư trong lon (canned abalone).
-Borates: Trứng cá Caviar/Roe.
-3-MCPD: Nước mắm.
-Nitrites/Nitrates: Cá hong khói, cá khô.
*Decomposition indicator (Dấu hiệu hư hoại)
-Histamine: loại cá Scromboids
-Các sản phẩm được làm cho chín bằng enzyme (Enzyme ripened Products).
*Các xét nghiệm phụ thêm (Health&Safety/Regulatory)
-Tình trạng vẹn toàn của bao bì lon hộp (container integrity): Sản phẩm đóng hộp.
- Phosphates: Tôm tép sống và chín, lát cá, scallops sống, sò hến sống và chín (raw
and cooked crustaceans, fish fillets, raw scallops, raw and cooked clams).
- Chỉ số an toàn Safety parameters (water phase, water activity, pH): Các sản phẩm
không đông lạnh ăn liền, sản phẩm bán bảo quản (Non frozen ready to eat)
Malachite Green là chất gì?
Malachite Green (MG) có tên hóa học là Triphenylmethane...MG là một loại bột rất mịn có màu xanh được dùng để nhuộm tơ, vải, giấy và da. MG cũng được dùng trong phòng thí nghiệm để nhuộm vi trùng và bào tử của nó.
Từ lâu, MG được xem là chất diệt trùng, sát nấm (loại saprolegnia ssp) và sát ký sinh trùng nhóm nguyên sinh vật (protozoa)...MG khác với chất sulfate đồng copper sulfate (CuS04) mà có người còn gọi là phèn xanh dùng để diệt ốc, diệt nấm và rong rêu trong nông nghiệp...MG đã được giới nuôi thủy sản trên thế giới sử dụng một cách rộng rãi từ lâu để phòng và trị bệnh cho cá tôm và sò hến.
Tại Canada trước 1992, các trại sản xuất cá giống cũng thường sử dụng MG để ngăn ngừa trứng cá bị nhiễm nấm.
Ngày nay, Canada cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới trong đó có Trung Quốc và Việt Nam đều cấm ngặt việc dùng chất MG trong việc nuôi trồng thủy sản. Chloramphenicol, Nitrofuran, xanh Malachite được thấy liệt kê trong danh mục các chất cấm sử dụng của Bộ Thủy Sản Việt Nam.
Tại Việt nam, MG có thể được các người nuôi cá tôm xuất cảng lén sử dụng để sát trùng ao hồ, để tắm cá trước khi thả chúng vào lồng nhằm mục đích ngừa cá bị nhiễm nấm hoặc nhiễm ký sinh trùng…
Khi vào cơ thể cá, MG sẽ bị phân hủy ra thành chuyển hóa chất (metabolite) Leucomalachite Green (LMG). Thời gian đào thải của MG thì rất nhanh nhưng ngược lại LMG có thể tồn tại trong một thời gian rất lâu dài trong thịt và nhất là trong mỡ của cá đã bị nhiễm độc.
Tại sao cấm sử dụng Malachite Green?
Thí nghiệm cho thấy MG và LMG làm hại gan, làm biến đổi tuyến giáp trạng, gây ra tình trạng mất máu, làm đột biến thay đổi gène (mutagenic) và gây cancer (carcinogenic) trên loài chuột thí nghiệm. Qua việc thẩm định các kết quả trên, giới khoa học đưa ra kết luận rằng MG và LMG là 2 chất nguy hiểm có tiềm năng gây cancer cho người.
Năm 2002, Canada cũng như nhiều quốc gia khác đã nhận thấy chất Malachite Green có thể là một mối đe dọa cho sức khỏe nên bắt đầu đề ra những chương trình thử nghiệm MG ở các loại cá tôm nuôi bày bán ở thị trưòng.
Các quốc gia trong khối Liên hiệp Âu Châu và Úc Châu ấn định dư lượng tối đa của MG và LMG trong thủy sản không được vượt quá hai phần tỉ (ppb)…Hoa kỳ và Canada thì cho áp dụng nguyên tắc zero tolerance, nghĩa là không chấp nhận sự hiện diện của bất kỳ một dư lượng nào dù là thật thấp của MG và LMG trong sản phẩm.
Thủy sản Việt Nam nhập vào Canada
Ngày 10/4/2007, Cơ quan Kiểm tra Thực phẩm Canada (CFIA) có phổ biến danh sách gồm có lối 200 công ty chế biến thủy sảnVN được cho phép xuất cảng qua Canada. Các công ty trên đều đã được Bộ Thủy sản VN chứng nhận (certification) nằm trong loại A và B theo quy định của ngành thủy sản VN. Các sản phẩm sản xuất từ những công ty nầy đều được Bộ thủy sản VN xét nghiệm và chứng thật không có sự hiện diện của các hóa chất cấm như Nitrofurane, Chloramphenicol, Malachite Green và Leucomalachite Green đồng thời cũng phải đáp ứng đầy đủ và tôn trọng các luật lệ về nhập cảng thủy sản của phía CFIA, Canada.
Trên lý thuyết giấy tờ là thế đó còn thực tế ra sao các bạn chắc cũng đã rõ theo như các cảnh báo (Alert) của Cơ quan FDA, Hoa Kỳ trong mấy năm trước đây.
Theo danh mục của Bộ Thủy sản VN ký ngày 2/2/2005 thì các hóa chất, kháng sinh sau đây bị cấm sử dụng trong sản xuất kinh doanh thủy sản:
Aristolochia và chế phẩm, Chloramphenicol, Chloroform, Chlorpromazine, Colchichine, Dapsone, Dimetridazole, Metromidazole, Nitrofuran (bao gồm Furazolidone), Romidazole, Malachite Green, Ipronidazole, các Nitroimidazole khác, Clenbuterol, Diethylstilbestrol (DES), Glycopeptides, Trichlorfon (Dipterex).
CFIA đề nghị không cho nhập cảng cá basa Việt Nam vì dư lượng Enrofloxacin vượt quá mức cho phép.(Juin 2011)
Xin đọc nguyên văn bản tin trên từ trang Pangasius Vietnam.
Thêm một thị trường cảnh báo Enrofloxacin
|
|
(vasep.com.vn) Giữa tháng 7/2011, Thương vụ Việt Nam tại Canađa cho biết, Cơ quan Kiểm tra chất lượng thực phẩm của Canađa (CFIA) đã kiến nghị không cho phép NK cá tra, basa philê đông lạnh từ Việt Nam do phát hiện dư lượng Enrofloxacin trong các lô hàng vượt quá mức 0,06 ppb cho phép trong thủy sản.
Thủy sản hiện là mặt hàng XK lớn thứ 3 trong số các mặt hàng XK chính của Việt Nam sang Canađa. 6 tháng đầu năm nay, Canađa là một trong những thị trường chính NK thủy sản của Việt Nam sau EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Hồng Kông, ASEAN. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã XK hơn 11,55 nghìn tấn thủy sản trị giá khoảng 63,2 triệu USD sang Canađa, trong đó có gần 6.900 tấn cá tra, basa, trị giá 21,42 triệu USD.
Tuy nhiên, từ ngày 20/6/2011, khi Luật An toàn sản phẩm tiêu dùng của Canađa (CCPSA) có hiệu lực thì việc XK thủy sản sang thị trường này bị ảnh hưởng.
Như vậy, kể từ đầu năm đến nay, ngoài Chloramphenicol, Trifluralin... Enrofloxacin là chất đang bị cảnh báo nhiều nhất tại các thị trường NK và lần đầu tiên Canađa cảnh báo về dư lượng hóa chất này trong các lô hàng cá tra, basa NK từ Việt Nam.
Trước đó, liên tiếp từ đầu tháng 3 đến tháng 6/2011, Hiệp hội Chế biến và XK thủy sản Việt Nam đã có công văn gửi Tổng cục Thủy sản kiến nghị về việc kiểm soát sử dụng Enrofloxacin tại các địa phương.
Tại thị trường Nhật Bản, trong tuần đầu tháng 6/2011, hệ thống cảnh báo NK của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản đã thông báo phát hiện 2 lô hàng tôm NK từ Việt Nam có dư lượng kháng sinh vượt mức giới hạn tối đa cho phép, trong đó có 1 lô chứa dư lượng Enrofloxacin ở mức 0,03 ppm. Kể từ ngày 10/6/2011, Nhật Bản đã chính thức tăng tần suất kiểm tra dư lượng Enrofloxacin từ 30% số lô hàng tôm lên mức 100%.
Ngoài ra, tại EU, Cơ quan thẩm quyền Đức, Italia cũng cảnh báo 4 lô hàng cá tra NK từ Việt Nam có dư lượng Trifluralin và chất diệt mối Chlorpyriphos.
Cho đến nay, vẫn chưa có văn bản mới nào bổ sung, thay thế Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17/3/2009 của Bộ NN và PTNT ban hành Danh mục thuốc, hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng. Và tại thời điểm này, Enrofloxacin vẫn có tên trong Danh mục thuốc, hóa chất, kháng sinh hạn chế sử dụng trong kinh doanh, sản xuất thủy sản với hàm lượng giới hạn là 0,1ppm”.
|
|
Đây là một loại kháng sinh thuộc nhóm Fluoroquinolone, dùng trong thú y, và chăn nuôi gia cầm (pha vô nước uống)
Có thể tạo ra các dòng vi khuẩn Campylobacter đề kháng các thuốc thuộc nhóm Fluoroquinolone. Campylobacter cũng là một vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy ở người, trị bằng Ciprofloxacin. Trường hợp có sự đề kháng, Ciprofloxacin sẽ không còn hiệu nghiệm đối với vi khuẩn Campylobacter nữa. VN thường sử dụng Enrofloxacin trong kỹ nghệ nuôi tôm.
Tại sao cá tôm nuôi vẫn còn bị nhiễm MG?
MG là một chất rẻ tiền, dễ tìm mà lại cho kết quả rất tốt trong vấn đề nuôi thủy sản. Các chất thay thế MG thì hiếm thấy, khó mua và đắt tiền cho nên một số người nuôi cá ở các quốc gia Á Châu và Việt Nam vẫn lén xài chất xanh Malachite một cách bất hợp pháp. Ngoài ra, sự kiện dùng cá và mỡ cá đã bị nhiễm MG để làm thức ăn nuôi thủy sản cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm lây nhiễm MG ở các loại cá tôm nuôi.
Hiện nay trên thế giới, chất được cho phép thay thế MG là chất Bronopol(Pyceze, Onyxide 500). Đây là một chất diệt khuẩn, sát nấm nhưng không gây cancer. Không có giới hạn về dư lượng của Bronopol…Tại Âu châu và Bắc Mỹ, Bronopol phải cần có toa của bác sĩ thú y mới mua được...Tại Canada, ngoài chất Pyceze ra còn có một vài chất khác cũng được cho phép sử dụng như Solution de Parasite-S ou de Formalin-R (dung dịch formaldéhyde có chứa méthanol để ngừa sự tạo ra paraformaldhéhyde rất độc cho cá), dùng tắm cá để ngừa ký sinh trùng trên da hay trên mang cá; Perox-Aid (peroxyde d’hydrogène) có tính diệt nấm nhiễm trứng cá; Ovadine dùng như một chất sát trùng cho trứng cá.
Ăn phi lê cá tra đông lạnh của VN có hại cho sức khỏe không?
Trong những năm gần đây, phi lê cá basa rất phổ biến tại hải ngoại.
Tại Montreal, chợ Tây, chợ Việt, chợ Tàu đều có bán. Và nên nhớ là sản phẩm được đóng bịch, mang nhãn hiệu tiếng Anh. Hình thức đúng tiêu chuẩn- Keep frozen, có Nutrition fact v ngày Best before.
Basat fillet/Filet de Pangasius. Net wt; 1135g/ 2.5lb- Pangasius Hypothalmus- sel, triphosphate de Na. Product of Vietnam-Packed exclusively for Bay Point Trading Inc. Barrie, Ontario. Giá bán 10$
Người gõ xin mượn một đoạn trong bài viết của nhà văn Phương Tôn, đăng trong khoahọc.net. 15/3/2011 để mọi người cùng suy nghĩ.
Sự thật quanh chuyện sản xuất cá tra Việt Nam.
Người tiêu thụ bị lừa dối, sức khỏe bị đầu độc?
“Khác với thị trường Việt Nam bán nguyên con hay từng khúc, cá tra xuất cảng sang Âu châu chỉ là hai miếng Phi-lê. Cá được vớt từ ao tù chất chồng lên nhau chuyển về xưởng chế biến. Những miếng Phi-lê sau khi được lóc ra liền được vào một cổ máy tròn xoay như hình thức một máy giặt trộn chung với nước có pha trộn Phosphat hoặc Citra. Đây là những chất có khả năng ngậm nước. Thông thường nhà sản xuất cá tra tại Việt Nam trộn theo tỷ lệ 4 tấn Phi-lê với 1 tấn nước có pha Phosphat. Trong cổ máy xoay tròn sau khi Phi-lê cá hút hết nước, liền được đưa vào phòng đông đá rồi cho vào bao bì. Nói tóm lại người tiêu thụ bị lừa đảo trắng trợn vì họ không biết rằng, khi mua bịch 1 kí Phi-lê cá tra Việt Nam họ chỉ được 800 gram cá hay nói một cách khác cứ mỗi 5 Euro trả tiền mua 1 ký cá họ phải trả 1 Euro cho tiền nước đá!
Phosphat không những chỉ giúp con buôn đánh lừa người tiêu thụ mà lại còn gây tác hại lên sức khỏe con người. Người tiêu thụ nhiều Phosphat sẽ bị hoại thận, làm giảm bớt chất Calcium trong cơ thể gây nên chứng loãng xương. Trong một thí nghiệm mới nhất trên loài chuột các nhà khoa học đã tìm thấy Phosphat có thể gây nên bệnh ung thư phổi.”