Lên mạng ngày 2/6/2011
Thử tìm hiểu hơn nữa một tỉnh miền Đông Nam Bộ ( Phần A), phụ cận thành phố Sài Gòn, Việt Nam chỉ mới chánh thức đặt nền cai trị thống thuộc nước nhà trên 320 năm , ở một xứ đồng hoang vu nhiều nai- Lộc Dã, nhiều thú dữ, cách đây trên 400 năm chỉ có vài hay vài trăm nóc nhà ; nay riêng một tỉnh lấy tên địa danh Đồng Nai xưa cũ đã có trên 2 triệu rưỡi người dân Việt cư trú :
Lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai – Biên Hòa
G S Tôn Thất Trình
Phần A – Tổng Quát
“ …Trước kia , việc dùng binh chẳng qua là để giết bọn cừ khôi, và mở mang thêm đất đai… Nhưng từ đồn binh Gia Định đến La Bích ( thủ đô Chân Lạp lúc đó ), đường xá xa xôi , nghìn trùng muôn thác không tiện đuổi ( Nặc Nguyên ). Muốn mở mang đất đai, cũng nên lấy hai phủ này, Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Gò Công và Tân An ngày nay), trước để củng cố mặt sau của hai dinh ( Trấn Biên , Phiên Trấn). Trước kia, mở mang phủ Gia Định, tất phải mở trước đất Hưng Phước, rồi đến đất Đồng Nai, khiến quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Côn . Đó là kế “ tầm ăn lá dâu” …
(Tờ trình năm 1753 của Nguyễn Cư Trinh lên chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat )
Địa lý , Hành chánh
Tỉnh Đồng Nai, thời đệ nhất Cộng Hòa gồm ba tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước Thành …, nhập lại, nhưng nay diện tích chỉ còn là 5903 km2 (hay 2279 dặm Anh vuông ) vì tháng 5 năm 1979, Đồng Nai mất đi một phần đất Ô Cấp hay Vũng Tàu ( Cap Saint Jacques ) để thành lập đặc khu Vũng Tàu. Đặc khu Vũng Tàu , nguyên là tỉnh Phưiớc Tuy, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cũng lấy luôn cả các đảo Côn Đảo, trước thuộc Hậu Giang. Thị xã tỉnh Đồng Nai là Biên Hòa. Bắc giáp Lâm Đồng, Đông giáp Bình Thuận, Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây giáp hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước và thành phố Sài Gòn ( TP Hồ chí Minh ). Tỉnh lỵ Biên Hòa nằm vào khỏang vĩ tuyến 1107’ Bắc và kinh tuyến 1070 Đông, cách Sài Gòn 32 km ( 20 dặm Anh ) về phía Đông nối liền nhau bằng quốc lộ số1; cách Hà Nội 1684 Km cũng theo quốc lộ số1, cách Đà Lạt 278 km, cách Vũng Tàu 95 km, cách Cần Thơ 198 km . Xe Lữa Tốc Hành Thống Nhất - Express Train Hà Nội- Sài Gòn, ngưng ở Biên Hòa.
Tỉnh Đồng Nai hiện nay gồm 10 quận: Cẫm Mỹ, Định Quán, Long Khánh, Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Phú, Thống Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và Xuân Lộc. Dân số năm 1995 là 1884 800 người, năm 1999 là 1989500 người, năm 2004 là 2174 600 người, năm 2009 là 2 483221 người. Đa số là tộc dân Kinh, một số nhỏ là các tộc dân gốc Hoa , X(s)tiêng, Cho Ro ( Mạ, tập trung ở quận Định Quán ), Tày, Nùng, Chàm … Dân số thị xã Biên Hòa, năm 1989, đã trên 300 000 người, năm 2005 tăng lên đến 541 495 người, năm 2007 ước lượng là 604 458 người và năm 2010 có lẽ đã gần 680 000 - 700 000 người.
Đôi chút Xuôi dòng lịch sử
Đồng Nai xứ sở lạ lùng,
Dưới sông sấu lội , trên bờ cọp um
Ca Dao miền Nam
Trước khi hình thành và phát triễn Nam Kỳ Lục Tỉnh, vùng đất hoang vu này, từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ thứ 7, thuộc về vương quốc Phù Nam, bao gồm một vùng đất bao la trải dài từ lưu vực sông Cửu Long đến sông Mênam ( Thái Lan là tên mới của Xiêm La từ năm 1939 ) xuống tận các đảo Mã lai ( Lâm Văn Bé, Dòng Việt số 17 năm 2005 ). Tháng 11 năm 1998, ở làng Phú Mỹ huyện Cát Tiên ( Công viên Quốc Gia Cát Tiên thiết lập tháng 12 năm 1998, gồm ba công viên cũ là Nam Cát Tiên, Bắc Cát Tiên và Cát Lộc, nằm trong địa hạt của 3 tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước) khám phá ra một ngôi làng cỗ, tuổi đã 2500- 3000 năm. Đây là một phức tạp di tích gồm đền đài, tháp và rất nhiều di vật tiền sử, chứng tỏ có sự lẫn lộn của một văn hóa Phù Nam, (sau này gọi là văn hóa Khmer, ta gọi là Chân Lạp ) hay có thể là một văn hóa khác ( ? ) ở miền Nam và văn hóa Champa. Trong số di vật có nhiều tượng thờ như Linga – Yoni, những vật liệu linh thiêng thờ cúng, dùng các bộ phận sinh dục con người làm biểu tượng. Có một Linga cao 2.1 m là một di vật lọai này lớn nhất thế giới. Ngòai ra còn nhiều dấu tích khác chứng tỏ Cát Tiên cũng có thể là một thánh địa của Vương Quốc Phù Nam, xây dựng cách đây 2000 năm. Thật ra dưới thời Pháp thuộc, lưu vực sông Đồng Nai với các địa điểm như cù lai Rùa, Cù Lao Phố, bến Đò… đã được các nhà khảo cỗ ( Cartailahac 1888, Grossin 1902, Loesh 1909, Barthère và Ripelin 1911, Malleret và Jansé 1937) … khai quật nhiều lần, nhiều nơi, tìm được hàng ngàn cỗ vật như búa rìu bằng đá, bằng đồng, sắt, xương sọ, dụng cụ đá mài nhẵn … chứng tỏ rằng lưu vực sông Đồng Nai đã có người cư ngụ 4000 – 2500 năm nay rồi, không có lịch sử, không chữ viết ghi chép, nên họ là người tiền sử. Trước thời vương quốc Phù Nam, họ là những con người tiền phong đến khai thác hạ lưu sông Đồng Nai, tạo ra một nền văn minh hái lượm, làm ruộng nước nữa ( Theo Hứa Hòanh, Tập san Đi Tới, số 69 và 70, năm 2003 ) .
Năm 1620, vua Chen Chetta II đến Thuận Hóa xin cầu hôn với công nương ( danh hiệu công chúa là sau khi các chúa đã mất, được truy phong hòang đế ) Ngọc Vạn ( khi trở thành hòang hậu tên là Ang Cuv hay Đam Sát ), con chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên. Chúa Nguyễn lợi dụng việc gả con gái này đưa người Việt đi vào lập nghiệp ở vùng đất Phù Nam cũ ở hạ lưu sông Đồng Nai, trên danh nghĩa là đất Chân Lạp, nhưng trong thực tế là đất vô chủ, bởi lẽ từ nhiều thế kỷ, vì sự suy yếu nội bộ, vì chiến tranh liên tiếp với Xiêm La, vùng đất này hòan toàn hoang vu, không có guồng máy cai trị của Chân Lạp. Trước khi người Việt đến, vùng này chỉ có vài mươi nóc nhà người Miên- Môn, theo nhà văn quê quán Biên Hòa Bình Nguyên Lộc còn có thể cả người tộc dân Mạ, hay có thể cả tộc dân Cho Ro, tộc dân X-(S)tiêng ( GiẻTriêng ? ),cả ba thuộc họ Nam Á , ngôn ngữ thuộc hệ Môn Miên ( Khmer) vì ảnh hưởng xưa cũ của hai nước Phù Nam và Chân Lạp. Nguyễn Cư Trinh gọi chung là Côn Man ( Côn Miên), ở trên các gò cao sâu trong rừng vùng Preikor ( Sài Gòn ), sống biệt lập với người Miên ở vương triều. Năm 1623, Chúa Sải cho đặt hai trạm thu thuế ở Prei Nokor ( Sài Gòn, nay ở khỏang quận 5 và Kas Krobei ( Bến Nghé, nay ở khỏang quận 1). Trịnh Hoài Đức cũng xác nhận trong Gia Định Thành Thống Chí là dân các tỉnh phía Bắc xứ Đàng Trong đã vô Mô Xòai từ đời các Tiên hoàng đế Nguyễn Hòang 1558- 1613, Nguyễn Phước Nguyên ( 1613- 1635 ). Sử ghi là năm 1665, có độ 1000 người Việt vào lập nghiệp ở vùng đất mới này ( cũng theo Lâm Văn Bé, Dòng Việt 2005 ).
Lúc này, nhà Minh bên Tàu cũng đang mất nước cho Mãn Thanh, các chiến sĩ Minh ưu tú phẩn uất bỏ đi tìm độc lập tự do, ngòai thế lực kẻ thù. Năm 1679, Trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch với Phó Tổng binh Hòang ( Hùynh ) Tiến, Tổng binh châu Cao, châu Lôi, châu Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó Tổng Bình là Trần An Bình đem 3000 quân và 50 chiến thuyền chạy thẳng vào của Tư Hiền ( Tư Dung ) và Đà Nẳng muốn đến xin làm thần dân chúa Nguyễn. Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần dung nạp bọn họ, cho bọn Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên vào cửa biển Cần Giờ, định cư ở Bàn Lân xứ Đồng Nai, Cù Lao Phố Biên Hòa, khai khẩn và lập phố phường buôn bán: thuyền buôn của người Thanh và các nước phương Tây, Nhật Bản, Java ( Nam Dương ) đi lại thông thương , phồn thịnh. Cù Lao Phố nằm phía Đông tỉnh lỵ Biên Hòa, tên cũ là Đông Phố. Người Tàu không phát âm được chữ Đ của Đồng Nai nên gọi là “ Nông Nại đại phố”, nhưng thế kỷ trước còn có tên là “ cù châu”. Cù châu không có nghĩa là cù lao, nhưng lúc bấy giờ dân gian người Việt tin rằng phía dưới cù lao có con hoa cù tức con rồng có sừng, do đó mới gọi là là cù châu. Như vậy có nghĩa là người Việt đã đến định cư ở đây, vì chính Điều Khiễn Nguyễn hửu Dõan , năm 1748, dụng binh ở Chân Lạp, thấy đất phủ Gia Định phần nhiều là đất bùn lầy chưa có đường bộ nên sai đắp một con đường thẳng từ phía Bắc Cầu Sơn đến Mỗi Xuy ( Bà Rịa ngày nay ) gọi tên là “Thiên Lý Cù” - đường ngàn dặm con rồng có sừng rong ruổi tiến mở mang đất nước), tiền thân của đường số 51 Bà Rịa- Biên Hòa ngày nay ? Đó chỉ mới là thiên lý cù phía bắc đến năm Gia Long thứ 14 , năm 1815 mới đắp thiên lý cù phía Tây , tiền thân của đường số 22 Biên Hòa – Gia Định – Trảng Bàng- Gò Dầu- Mộc Bài hay Gò Dầu- Xa Mát – Tây Ninh ở Việt Nam , nối dài quốc lộ số 1 Căm Bốt từ Svay Riêng lên đến Nam Vang ( Phnom Penh ) ? Người Hoa (Tàu ) hay Minh Hương tập trung ở cù lao Phố lập thành làng Thanh Hà, chuyên nghề thương mãi. Cù lao Phố là đô thị người Hoa đầu tiên ở Việt Nam phát triễn liên tục trên nữa thế kỷ, đóng một vai trò quan trọng xuất nhập cảng cho xứ Đồng Nai. Địa danh Cát Lái, đáng lý phải gọi là “ Các Lái “ để chỉ danh một bến đò, một chỗ họp chợ của người buôn bán sĩ, các ghe thương hồ chở chén đĩa, lu hũ , đá tán kê nhà, cối xay bột… đưa về miền Tây, đồng bằng Sông Cửu Long. Hơn 60 năm thành lập, Nông Nại đại phố sầm uất hơn bao giờ hết. Nhưng năm 1747, đánh dấu một biến cố lớn cho cù lao Phố. Một tên cầm đầu bọn khách thương người Phúc Kiến là Lý Văn Quảng, dậy lòng tham cùng 300 đồng đảng tự xưng là “ Nông Nại đại phố vương” định chiếm Nông Nại, tổ chức như một triều đình, mở cuộc đánh úp dinh Trấn Biên, hạ sát trấn thủ dinh là Khâm sai đại thần , Cẩn Thành Hầu Nguyễn Cao Cẩn. Phó tướng dinh Trấn Biên là Lưu thủ Cường, tước Cường Oai Hầu, rút ván cầu “ Chợ Đồn” bắc ngang giữa cù lao Phố và đồn canh bờ sông, cố thủ. Chúa Vỏ được tin cấp báo, sai Cai cơ Tống Phúc Đại, tước Đại Thắng Hầu, đang đóng ở Mô Xòai, đem binh cứu viện. Tống Phước Đại bắt được Lý Văn Quảng cùng đồng bọn là 57 người. Lớp còn lại bỏ trốn vào rừng hay theo sông Đồng Nai xuống Tân Bình. Nông nại đại phố phục hồi sinh lực, phát triễn thêm vài mươi năm nữa. Gần hai mươi năm sau, tàn quân rã ngũ có hai tên là Lý Tài và Tập Đình biết vỏ nghệ, khôn ngoan, được dân du thủ du thực tôn làm anh chị, thuộc phe Thiên địa hội “ Phản Thanh Phục Minh”. Trước hết bọn Lý Tài, Tập Đình theo Tây Sơn. Nhưng khi Đông cung Dương từ Quảng Nam chạy vào Qui Nhơn, Tài và Đình đến xin theo phò. Đang lúc sa cơ, Đông cung đải Tài và Đình như thượng khách và khi Đông Cung tới Gia Định hợp với quân của chúa Định , lấy hiệu là Tân Chính vương khi chúa Định nhường ngôi, Lý Tài được phong làm đại nguyên sóai. Làm cho quân Đông Sơn do tướng Đỗ Thành Nhơn phò tá chúa Định vào Gia Định trước Đông cung, bất mãn. Hay tin ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ kéo đại quân vào đánh, tới núi Châu Thới bắt được Lý Tài giết ngay. Huệ đuổi theo quân Nguyễn bắt được Tân Chính Vương ở Ba Vát, Thái Thượng Vương ở Cà Mau, đem về Sài Gòn hành hình. Nguyễn Nhạc vào Nam, khi hay tin viên hộ giá thân tín của mình bị giết, nổi trận lôi đình, ra lịnh tàn sát tất cả người Hoa ở cù lao Phố ( vì Nhạc còn nghi thêm là người Hoa đã giúp lương thực cho các chúa Nguyễn ). Linh mục Castueras, có mặt tại Chợ Quán ngày 7 tháng 7 năm 1782, cho biết có gần 4000 người bị quân Tây Sơn giết. Sử quan nhà Nguyễn, nhất là Trịnh Hoài Đức, có thể tăng cao số nạn nhân Hoa gấp ba lần. ( theo Hứa Hòanh ở tập san Đi Tới nói trên). Cù lao Phố bị quân Tây Sơn phá tan hoang, khi trung hưng lại, người ta trở về, nhưng dân số không còn bằng một phần trăm lúc trước ( Theo Đại Nam Nhất Thống Chí). Những người Hoa còn sót lại chạy về Gia Định, gầy dựng lại cảnh Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn cù lao Phố trước ( Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển )
Trở lại năm 1689, Chúa Minh Nguyễn Phước Chu sai Thống Xuất Nguyễn hửu Kính ( hay Cảnh ) làm Kinh Lược xứ Đồng Nai, lúc đó có tên là Đông Phố, chia đất Đông Phố để cai trị, theo kiểu Đàng Trong. Lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên . Như vậy trên phương diện quân sự, quốc phòng, gìn giữ biên cương, dinh Trấn Biên nguyên là dinh Phú Yên , nay đã tiến xa vào Nam là Biên Hòa. Lấy xứ Sài Côn, đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn ( tức là Gia Định ). Và đặt phủ Gia Định thống thuộc hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn. Lúc này, cả hai huyện Phước Long và Tân Bình, theo Nguyễn hửu Cảnh thống kê, đã mở rộng đất ngàn dặm, dân số hơn 4 vạn hộ ( theo Đại Nam Thực Lực Tiền Biên, quyễn IV). Dân Việt như thế đã lên đến cả trăm nghìn người, đông đúc hơn dân quân binh tướngTrần Thượng Xuyên, đến xứ Đồng Nai 10 năm trước đó ). Chúa Minh Nguyễn Phúc Trăn ( Chu ) sai chiêu mộ thêm lưu dân từ Bố Chính trở vào Bình Thuận đến ở đây, thiết lập xã, thôn, phường, ấp, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế tô, thuế dung, làm bộ đinh, bộ điền (Phan Khoang , Việt sử xứ Đàng Trong, xuất bản năm 1967 ).
Năm 1739, vua Chân Lạp ( Căm Bốt ) là Nặc Nguyên, muốn chiếm lại Hà Tiên, một di dân nhà Minh là Mạc Cửu , đồng thời với tướng Dương Ngạn Địch đã qui phục chúa Nguyễn lảnh chức Tổng Binh Hà Tiên và con là Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, phát triễn phồn thịnh Hà Tiên, trở nên vật thèm muốn của Xiêm La và Căm Bốt. Chúa Vỏ Vương sai Nguyễn cư Trinh sang đánh vua Chân Lạp. Nặc Nguyên bỏ chạy, xin nộp đất miền Nam Gia Định là Tầm Bôn và Lôi Lạp giảng hòa.
Năm 1768, cuộc Nam Tiến của dân Việt Nam kể như chấm dứt. Lảnh thổ Nam Kỳ lúc này được chia thành 3 tỉnh : tỉnh Đồng Nai bao gồm các vùng đất miền Đông Nam Bộ, tỉnh Sài Gòn bao gồm các vùng đất từ sông Sài Gòn đến cửa Cần Giờ và tỉnh Long Hồ bao gồm các vùng đất miền Tây Nam Bộ. Năm 1808, dưới thời Gia Long, Nam Kỳ được gọi là Gia Định Thành bao gồm 5 trấn: Hà Tiên, Vĩnh Thạnh, Định Tường, Phiên An, Biên Hòa. Năm 1834, dưới thời Minh Mạng 5 trấn được biến thành 6 tỉnh. Năm 1988 thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia ra làm 20 hạt, rồi 20 tỉnh, trong đó có tỉnh Biên Hòa. Năm 1954, Miền Nam, sau hiệp định Genève để chỉ vùng đất Việt Nam Cộng Hòa Nam vĩ tuyến 17, gồm 40 tỉnh trong đó vẫn còn tỉnh Biên Hòa. Thời Đệ Nhất Cọng Hòa, vùng miền Đông Nam Phần lập thêm nhiều tỉnh nhỏ, còn ít dân, để nhận dân di cư Miền Bắc, thiết lập nhiều địa điểm dinh điền có lõi là dân Bắc di cư, phỏng theo phương thức dinh điền xưa cũ và kế sách tầm ăn dâu của Nguyễn Cư Trinh, kèm theo mục tiêu chiếm giữ ( ? ) các chiến khu kháng chiến cũ ( Các chiến khu C, D, Dương Minh Châu- Tam Gíác Sắt …) , thời Pháp chiếm đọat lại Việt Nam- Đông Pháp, Việt Minh vẫn còn để lại hệ thống tổ chức cán bộ, những người theo họ hay có cảm tình với họ, không đi tập kết ra Bắc. Bên cạnh tỉnh Biên Hòa cũ, có thêm các tỉnh Long Khánh, một phần các tỉnh Phước Thành, Bình Long, Bình Tuy …. Sau 1975, tỉnh Đồng Nai được thiết lập và Biên Hòa trở thành thị xã tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai.
Khí hậu, Thủy văn ( Sông ngòi )
Tỉng Đồng Nai nằm vào vùng gió mùa nhiệt đới, cho nên bị ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Tỉnh nhà còn bị ảnh hưởng của khí quyễn nhiệt đới Thái Bình Dương, từ tháng 4 đến tháng 10. Khí hậu chia ra hai mùa rỏ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 3 hay tháng 4 đến tháng 11 và mùa nắng ( mùa khô ) từ tháng 12 đến tháng 3, tháng 4 năm tới. Nhiệt độ trung bình từ 23.9- 29.0o C, nghĩa là thấp ( mát mẽ ) hơn mức tiêu chuẩn các vùng nhiệt đới ( 26-300C ) nhiều. Trái lại lượng mưa vẫn nhiều 1500- 2700 mm . Trung bình nhật chiếu 4-9.5 giờ/ ngày, nhưng không bao giờ quá 11.5 giờ/ngày kể cả những ngày nóng nhất và nắng nhất. Tổng số ngày mưa trong năm 120- 170 ngày ( tiêu chuẩn cho vùng nhiệt đới là 150- 160 ngày). Ẩm độ trung bình l80- 82% và ẩm độ mùa khô thấp hơn mùa mưa khỏang 10-12% . Tùy mỗi huyện, ẩm độ biến thiên, khác nhau rất nhiều. Khí hậu tỉnh Đồng Nai thuận lợi so với nhiều tỉnh khác nước nhà, để phát triễn nông nghiệp, công nghệ, văn hóa và du lịch.
Tỉnh Đồng Nai có những nguồn sông như nguồn sông Ray chảy về Bà Rịa – Vũng Tàu hay nguồn sông Dinh chảy về cửa Hàm Tân – Bình Thuận, tổng cọng là 60 sông lớn nhỏ, kênh rạch . Nhưng hệ thống sông Đồng Nai với các nhánh lớn, bên trái là sông La Ngà ( giữa đường Biên Hòa-Long Thành là một nhánh nhỏ là sông La Dương ), bên phải là sông Bé và nhánh nhỏ hơn hai nhánh vừa kể, chảy Thủ Dầu Một - Bình Dương rồi đổ vào sông Đồng Nai gần Nhà Bè , mới thật là quan trọng.
Tuy sông Đồng Nai chỉ được xem là sông đứng hàng thứ ba ở Việt Nam, vì lưu vực trong nước chỉ là 37394 km2( lưu vực tòan bộ là 42 666 km2 ), sau sông Hồng lưu vục rộng 61 300 km2 ( tòan bộ 143 000 km2) và sông Mê kông ( Cửu Long trong địa phận Việt Nam ) 71 000 km2( toàn bộ 795 000 km2 ), nhưng chiều dài chảy trong nước lại đứng hạng nhất 635 km ( sông Hồng 566 km, sông Cửu Long đứng hạng 8, 230 km, sau sông Mã 410 km, sông Ba- Đà Rằng 388 km… , chỉ trên sông Thu Bồn hạng 9, 205km . ( Thái Công Tụng, Vietnamologica , 2005 ). Phần sông Đồng Nai chảy qua tỉnh Đồng Nai ngày nay chỉ dài 294 Km .
Tên cũ của sông Đồng Nai là sông Phước ( Phước ) Long , còn có tên là sông Hòa Quí. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí ( bản dịch của Phạm Trọng Điềm 1997 và Hòang Đỗ sưu tập 2003 ), có đôi chút địa lý không hòan tòan đúng theo phân chia hành chánh hay gọi tên ngày nay, sông Đồng Nai bắt nguồn từ các động Man tỉnh Bình Thuận, hợp với sông La Nha ( La Ngà ), chuyễn về phía Tây qua núi Thần Qui đến ngã ba sông Bé bẻ về phía Đông hợp lại thành sông lớn, giữa sông nổi Hòa, chảy xuống làm sông Đồng Môn, hợp với sông Bình Tân huyện Bình An làm sông Phước Bình, vào phủ Phước Tuy đến sông Ngã Bảy, hợp với sông Kí huyện Long Thành và sông Hưng Phước huyện Phước An mà ra biển ở cửa Cần Giờ. Trước Biên Hòa cũ ( nay là Bà Rịa ) còn có sông Lai ở phía Đông Bắc huyện Long Khánh nguồn ra từ xa Bảo Chánh chảy vào sông Xích Lam ở phía Đông huyện Phước An, chảy ra cửa biển Xích Lam. Theo địa lý ngày nay hơn, sông Đồng Nai bắt nguồn từ hai dòng sông nhỏ trên Cao nguyên Lâm Viên ( Lang Biang ), cao 1500 m trên mặt biển. Nguồn phía Tây Đà Lạt là suối ( sông ?) Đá Dựng ( Đa Đung, Đa là tên địa phương gọi sông, suối ), trên đó có đập Ankróet ở suối Vàng. Nguồn phía Đông là sông Đa Nhim với một hồ nước nhân tạo ở Đơn Dương ( Dran) của đập Thủy điện Đa Nhim, nước theo hai đường ống khổng lồ, từ Đèo Ngọan Mục cao 1100m, đổ xuống dưới chân đèo tại nhà máy phát điện Krong Pha. Đa Nhim bắt nguồn từ Nam Trường Sơn, trên Nhơn Hà, giáp giới hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa, bọc một rặng núi có đỉnh cao 2275m, phía trên thác Prenn. Hai nguồn suối nhỏ trong rừng sâu này chảy len lõi giữa các hốc đá, các triền núi, song song theo hướng Bắc Nam tới địa phận quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tới đây nguồn phía Đông đổi dòng, nhập với dòng phía Tây tạo ra sông Đồng Nai, trong địa phận tỉnh Lâm Đồng – Bảo Lộc ( Blao ), nhưng vẫn còn ở ngòai địa phận tỉnh Đồng Nai ngày nay. Gần thị xã Bảo Lộc có thác Đăm Bri, trước đây hoang vu vì thiếu an ninh, nay đã tu bổ sửa sang làm nơi đón khách du lịch ( và dự trù làm thêm ở đây một đập thủy điện nữa ? ). Thác Đăm Bri tiếp tục chảy xuống đèo Bảo Lộc tạo thành suối Tiên ở lưng chừng đèo. Rồi dòng sông tiếp tục thêm trong sâu, vào địa phận tỉnh Đồng Nai ở Định Quán, Kiệm Tân, Bến Nôm, Cây Gáo v.v… Giữa các làng này, dòng sông có nhiều đá ngầm chắn nước dài khỏang 20 Km, mùa mưa dòng nước chảy xiết ầm ầm suốt ngày đêm như tiếng gọi của rừng thẳm. Ở thượng nguồn , có nhiều thác nước đẹp đẽ, thường do các phay ( fault , faille ), chỗ nứt rạn, gảy sụp kẻ đất nẽ địa chất gây ra. Như thác Gougah, thác Liên Khàng gần Đức Trọng của sông Đa Nhim, thác Pongour hùng vĩ cao nhất Đà Lạt do nguồn Đá Dựng tạo ra, các thác Datanla, Prenn, Cam Ly nhận nước hồ Than Thở , hồ Hồ Xuân Hương. Đến thác Trị An, sông Đồng Nai mới chảy trên một địa thế tương đối bằng phẳng, thoai thỏai từ Tây sang Đông, dòng sông khá sâu, tùy đọan, nước chảy chậm hòa hỏan, ghe tàu nhỏ đi lại dễ dàng. Trước khi tới tỉnh lỵ Biên Hòa , sông Đồng Nai chia ra làm hai nhánh bao bọc lấy cù lao Tân Chánh, cù lao Rùa ( hình dáng như con rùa vì có ngọn đồi cao 17m ), cù lao Tân Triều ( có một lọai trái bưởi “ Biên Hòa” nhỏ da màu vàng có khi gọi là bưởi ổi, ngọt thanh nổi tiếng ). Cù lao Rùa đánh dấu một giai đọan phát triễn văn hóa của lưu vực sông Đồng Nai, còn ghi đậm trong tiến trình các thời tiền sử và lịch sử. Chính tại cù lao Rùa, các nhà khảo cỗ đã khai quật nhiều di tích tiền sử với hàng ngàn cỗ vật thời kỳ đồ đá mới, đang bước qua sơ kỳ đồ đồng và đồ sắt, đã nói qua ở trên. Cho nên có nhiều câu hỏi cho rằng có phải chính họ đã tiến xuống Nam, chứ không phải ngược lại, tạo ra nền văn minh vương quốc Phù Nam. mà cảng Ốc Eo gần chân núi Ba Thê, biên giới hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, trước khi bị phù sa bồi đắp xa hẳn biển Tây, là thị trấn đầu tiên của bán đảo Đông Dương tiếp xúc với văn minh Hy Lạp, La Mã ?
Sông La Ngà là nhánh lớn bên trái của sông Đồng Nai, bắt nguồn ở cao nguyên Di Linh -Lâm Đồng, cao 1600m. Trước đập Trị An cách tỉnh lỵ Biên Hòa 50 Km, là đập thủy điện lớn nhất miền Nam , trên sông Đồng Nai, sông La Ngà đổ vào hồ La Ngà, nay là một thành phần của hồ Trị An. Còn phía thượng lưu thì ngòai các đập thủy điện ( Hàm Thuận, Đa Mi …), sông La Ngà còn có công dụng cấp nước cho các huyện tỉnh Bình Thuận ( Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận… ) và tăng nước cho thủy điện Trị An vào mùa khô.
Sông Bé là nhánh lớn bên phải của sông Đồng Nai, cũng bắt nguồn từ cao nguyên M’Nong – Đắc Nông chảy qua tỉnh Bình Phước ( thời Cộng Hòa là hai tỉnh Bình Long và Phước Long ), chiều dài khỏang 360 km, rồi đổ vào sông Đồng Nai ở phía dưới thác Trị An.
Sông Sài Gòn, phần lớn chảy qua tỉnh Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè. Khúc sông Nhà Bè này có một dòng thóat lưu tách ra gọi là sông Lòng Tảo , chảy ra Biển Đông ở cửa Sòai Rạp thuộc địa phận Thành Phố Sài Gòn (TP HCM ). Còn tả ngạn dòng sông Đồng Nai- Sài Gòn ở huyện Nhơn Trạch ( ? ) bọc phía Bắc rừng sác Cần Giờ mới là ranh giới tỉnh Đồng Nai?
Địa hình, đất đai
Như vừa tả sơ qua, địa hình tỉnh Đồng Nai gồm cả thung lũng, đất thấp đồng bằng và đồi núi. Tỉnh Đồng Nai gồm hai hòn núi nhô lên là núi Châu Thới gần Biên Hòa và núi Chứa Chan ( dân địa phương gọi là núi Gia Ray), cao 859 m gần Xuân Lộc. Núi Châu Thới ngày nay không còn nữa, bị san phẳng lấy đá tán nhỏ trải đá trộn lẫn cát, nhựa đường… theo kỷ thuật mới, hot nick ( ?) hảng thầu Mỹ RMK áp dụng, làm xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa thời đệ nhất Cộng Hòa ( ? ). Cuối thời kỳ Pleistocen, cách nay chừng 50 000 năm, tỉnh Đồng Nai cũng như miền Đông Nam Phần và đồng bằng sông Cửu Long còn chìm trong biển cả. Về đệ tứ kỷ, phía Đông đồng bằng này, khối móng đá gốc thời ky địa chất Trung Sinh ( Mesozoique ) được nâng lên cùng lúc với các rặng núi phía Nam Trung bộ chừng 6000 năm nay vào thời kỳ Holocen muộn ( thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000 năm trước Công Nguyên. Cùng lúc với sự nâng lên thì macma bazan hỏa diệm sơn cũng phun lên, vào tuổi Pleistocen muộn – holocen sớm, bao phủ các phù sa bên trên khối móng đá gốc Trung Sinh. Lớp phù sa cỗ sinh cũng như các phún thạch bao phủ lớp này rất rộng, lan đến phía Kratié- Kompongcham, Căm Bốt. Như chúng ta đã biết, phần phía Tây bị lún xuống tạo ra một vịnh biển: phù sa sông Cửu Long bồi đắp trên vịnh biển, với sự rút lui của mực nước biển để tạo thành châu thổ sông Cửu Long ngày nay.
Đất đai tỉnh Đồng Nai thuộc hai nhóm chánh là đất xám Acrisols : hoặc bạc màu trên phù sa cổ - Haplic Acrisols , phẩu diện thường có phân tầng rỏ rệt theo màu sắc loang lỗ đỏ vàng xen lẫn các ổ kao lanh trắng, hàm lượng hửu cơ và các chất dinh dưỡng thấphoặc đất xám gley- gleyish Acrisols vùng gò đồi, acid, nghèo hửu cơ , nghèo dưỡng liệu ; và nhóm đất nâu đỏ trên đá basan, gọi là đất ferralit hay đất latosol nâu nhóm ferrasols theo phân lọai FAO. Đất latosols này thường gặp nhiều ở Xuân Lộc và Gia Kiệm . Đất ferrasols phì nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn. Ngoài hai nhóm chánh này còn có thể gặp đất feralit vàng hay đỏ vàng – Ferralic Acrisols, địa hình, độ dốc và cao độ khác nhau, có phản ứng chua, tầng đất mỏng dễ bị hiện tượng xói mòn; đất feralit nâu vàng trên phù sa cổ có kết von và đá ong, sâu 20 – 30cm là đã gặp tầng đá ong ( đá ong “Laterit Biên Hòa”) có lớp cuội tròn nhẵn kích thước khác nhau, chứng tỏ dấu vết của phù sa cỗ, hàm lượng dinh dưỡng thấp có đá ong kết von, nhưng vì đất ở địa hình thấp dễ tưới nước, nên cũng có thể trồng được nhiều lọai cây lương thực và cây ăn trái; đất đen trên đá basan tên khoa học là Luvisols, rất phì nhiêu nhờ khả năng trao đổi cation và độ bazờ rất cao, và đặc biệt là các đất phù sa- fluvisols ven các dòng sông Đồng Nai, La Ngà , Sài Gòn…
Danh lam, Thắng cảnh
Thắng cảnh thiên nhiên đáng kể ra trước nhất là phong cảnh hửu tình dọc theo sông Đồng Nai mà thượng nguồn ở Tây Nguyên dài hơn 480km, gần gấp đôi dòng sông chảy ở địa phận tỉnh nhà. Hai bên bờ sông đều có nhiều làng xinh đẹp. Xung quanh vẫn còn nhiều động vật và thực vật đặc hửu ( cẩm lai Đồng Nai, gõ đỏ - gà te, bằng lăng… ), phong phú . Dân chúng vùng núi Bửu Long khi lớn lên đã nhận ra ngay hai cù lao Rùa và cù lao Tân Triều sừng sửng trước mặt. Đứng bên này dòng sông, dẫu các cù lao không mấy xa xôi, nhưng không có chiếc cầu nào bắc sang cả. Chỉ có những chiếc đò chèo chậm chạp chở người dân quê nặng ân tình, nối đôi bờ bến nước. Những buổi trưa hè con đò uể ỏai im lìm nằm đợi khách trên bến vắng ( Theo mô tả của Hứa Hòanh, tạp chí Đi Tới , 2003 ). Nay thì đã có những chuyến tàu thủy dạo sông những khúc không có đá ngầm, giao thông được. Không rỏ nay đã có cầu nào bắc qua các cù lao chưa, vì hệ thống đường xá tỉnh nay đã dài hơn 3339 km, và 100 % đường làng, xe hơi đều tới được trung tâm. Cũng như nhiều nơi khác, đây là phần đất quê hương từ năm 1945 đến đầu thập niên 1990 , khi thì hiền hòa êm ả, khi thì lữa khói ngập trời. Dân gian chia rẽ thành hai phe chống đối giết lẫn nhau vô lối, một bên với súng ống Nga - Tàu , một bên với súng ống Mỹ và đồng minh ( Đại Hàn, Úc…). Ngay cả tại thị xã Biên Hòa, sân bay quân sự Hoa Kỳ, theo tài liệu phái bộ quân sự Úc, đồng minh Hoa Kỳ ở chiến tranh Việt Nam, thiết lập giữa thập niên 1960 ở ngọai ô thị xã Biên Hòa thường bị móc chê của đối phương ( Việt Minh, tên của mặt trận cai trị miền Bắc trước đó và sau 1962 là Việt Cộng - Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam miền Bắc dựng lên), núp lén ở các nhà theo hay có cảm tình Việt Minh - Việt Cọng tại trong thị xã Biên Hòa, bắn phá nhiều lần. Trên cù lao Rùa, có chùa Khánh Sơn , di tích lịch sử, xây cất đã trên 100 năm. Chùa nép mình dưới các hàng Sao đen Hopea odorata , họ Dầu Dipterocarpaceae, một cỗ thụ lọai cao nhất nước nhà , có khi đến 40 m, thân trụ thẳng tuột cao chót vót. Từ trên cao nhìn xuống , giữa cù lao thế đất cao hơn mặt nước tới 17 m, trông giống cái lưng con rùa. Còn cù lao Tân Triều là quê hương của lòai bưởi Tân Triều (còn gọi là bưởi ổi ), đặc thù của Cù lao, nhưng khi chín da màu vàng ở miền Nam này như lòai bưởi Năm Roi Quận Bình Minh – Vĩnh Long, hình trái lê thịt không dính vào vỏ múi rất ngọt, thơm phức, đã đã bán ở nhiều thị trường ngọai quốc, phẩm giá có lẽ trội hẳn bưởi Oroblanco Ca li, có khi vài tiệm Việt kiều bán giả dạng bưởi Năm Roi, không hột khi trồng cây riêng rẽ và hơn 10 hột khi trồng chung chạ trong vuờn . Ngòai Bưởi ổi Tân Triều, Biên Hòa còn có thêm bưởi Đường Lá Cam, dễ bóc tép, ngon ngọt nhiều nước, thơm và thanh, nhưng nhiều hột, khi chín da xanh không vàng nhiều như các lọai bưởi các tỉnh Miền Nam ( bưởi Da Xanh Mõ Cày- Bến Tre , Châu Thành Tiền Giang chẳng hạn…), khác màu vàng các lòai bưởi ngon nổi tiếng miền Bắc hay miền Trung ( bưởi Đoan Hùng quận Đoan Hùng -Vĩnh Phú; bưởi Phúc Trạch, quận Phúc Trạch- Hà Tĩnh; bưởi Thanh Trà, quận Hương Trà- Hương Điền, Huế - Thừa Thiên… ). Thật tế, khi du khách đến làng Tân Triều, cách thị xã Biên Hòa 25 km, khách sẽ được mời thưởng thức một tá lọai bưởi mùi vị khác nhau, trong đó ngọt nhất lại có tên là “Thanh Trà”.
Thứ đến là Thác Trị An, cách tỉnh lỵ Biên Hòa chừng 50km. Thác cao 8m và rộng 30m. Chung quanh là phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đẹp đẽ. Dưới chân thác có một số tiểu dảo và các lòng bải đá cuội. Đập thủy điện Trị An công xuất lớn nhất ở miền Nam Bộ 400 000 KW, điện lượng 1.7 tỉ KWH ( KW Giờ ) thiết lập năm 1988, sau đập Đa Nhim trên sông Đồng Nai, thiết lập năm 1974 lúc đó chỉ có công xuất 120 000KW , điện lượng 420 triệu KWH, nay đã có công xuất trên 400 000 KW. Phong cảnh quanh đập Trị An rất rộng và ngọan mục, nên nay là nơi du khách viếng thăm nhiều nhất ở tỉnh Đồng Nai. Hồ Trị An cung cấp nước cho đập Trị An, năm 2001, đã có thêm nước của hai đập trên sông La Ngà là Hàm Thuận ( công xuất 300 000 KW) và đập Đa Mi ( 150 000 KW) nối liền hai hồ Trị An và hồ La Ngà , hòan tòan ở địa phận tỉnh Đồng Nai. Nhưng đập Hàm Thuận thuộc tỉnh Bình Thuận còn có nhiệm vụ làm cho thung lũng Tánh Linh- Đức Linh ( Bình Thuận ) khỏi bị ngập lụt và tưới ruộng vùng này. Chính Tánh Linh là nơi thử đại trà lúa Thần Nông IR8 đầu tiên ở Việt Nam, sau đó mới phổ biến rộng ở đồng bằng Sông Cửu Long. Cũng như ít ai biết là mọi kỷ thuật tân tiến lúc đó về canh tác lúa Thần Nông tiểu điền, phát sinh ở IRRI – Phi Luật Tân, đều được thử nghiệm hoàn tất tại Trung Tâm Huấn luyện Lúa Thần Nông, cù lao Phố -Biên Hòa, với sự góp công đắc lực của các kỹ sư, kiểm sự tốt nghiệp trong nước ở Bảo Lộc hay ở Cao Đẳng Sài Gòn, các năm 1967- 68 . Hồ La Ngà là nơi có thiết lập làng nhà bè nổi nuôi cá dưới bè thâm ngư đầu tiên ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ , chiếu theo kiểu Châu Đốc – An Giang khởi đầu vào thập niên 1960 thời Cộng Hòa. Có lẽ nên cải thiện thêm xây cất các nhà bè, biến chúng thành nơi có những tiệm ăn tân trang lịch sự, sang trọng hơn trên bè kiểu Aberdeen- Hồng Kông, cải thiện cách nấu cá đặc biệt như cá kho tộ, canh lẫu đầu cá …. kiểu Biên Hòa đã nổi tiếng từ lâu( ? ) . Một hồ khác Hồ Long Ẩn ( ? ), ít ai nói tới, rộng 10 ha, cách thị xã Biên Hòa 6km , đã được xem là xinh đẹp, lạ lùng như một Vịnh Hạ Long thu nhỏ .
Công viên Quốc gia Cát Tiên, như đã kể là ba công viên Nam Cát Tiên, Bắc Cát Tiên và Cát Lộc nhập lại tháng chạp năm 1998, thuộc 3 tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước, do bộ Nông Nghiệp quản trị. Đi trên quốc lộ 20 từ thành phố Hồ chí Minh- Sài Gòn lên Đà Lạt đến cột mốc số 174 ngang qua ngã ba Tân Phú, rẽ về phía tay trái, sẽ nhìn thấy bảng ghi « Công Viên Quốc Gia Cát Tiên – 24 Km ). Diện tích 74 319 ha. Dân gian địa phương còn duy trì nhiều phong tục, tập quán điểm tô nhiều sắc thái văn hóa tộc dân ít người dị đồng, cho nên hút dẫn nhiều nhà khảo cỗ: vì rừng Cát Tiên còn có thể chưa nhiều di tích, di chỉ lịch sử có giá trị đáng được khai quật thêm. Như đã kể trên tháng 11 năm 1988 ở làng Phú Mỹ huyện Cát Tiên một làng cỗ được khám phá tuổi 2500 – 3000 năm, có lúc có thể là Đất Thánh của nền văn minh Phù Nam cách đây 2000 năm ( ? ). Công viên tiếp tục bảo tồn đất đai nguyên thủy và hệ thống sinh thái đa dạng,
. Nghiên cứu của Ban Quản trị Công Viên kiểm kê được 77 lọai thú vật thuộc 28 họ và 10 lòai; 326 lọai chim thuộc 62 họ và 18 lòai; 37 lọai bò sát thuộc 18 họ và 3 lòai ; 133 lọai cá thuộc 28 họ và rất nhiều lọai sâu bọ, côn trùng. Đáng kể nhất là các thú vật Sách Đỏ ghi bị hiểm nguy tuyệt chủng tỉ như Bò banteng, Minh - Gaur, Cọp, Gấu, Chó sói, Khỉ chân đe , Côn , Sếu cổ trắng, Trĩ Đông Nam , Cá sấu, Báo hoa mai… , Đặc biệt nhất là một bầy 7- 8 con tây ngu một sừng. Ngày 14 tháng 5 năm 1999, vào 4 giờ sáng, một lọạt máy chụp hình đặt sẳn, đã chụp đựợc một bầy tây ngu trưởng thành, thuộc họ tây ngu Java ( Inđônêxia ). Rừng bảo vệ nguyên thủy Cát Tiên rộng 3500 ha, cách Biên Hòa 150 km. Cho đến nay Công viên Cát Tiên đã phân lọai được 1610 lọai cây thuộc 75 họ, 160 lòai và 724 tông chi thực vật. Nhiều lọai đã ghi vào Sách Đỏ. Len lõi trên đường mòn trải lá rụng, thấy ánh sáng xuyên qua các tán cây, tầng tầng - lớp lớp. Không khí ẩm ướt. Ve sầu kê rềnh rã khắp rừng .Trước tiên nhìn thấy một cây tùng bách tuổi trên 400 năm. Đi xa hơn một chút, gặp một cây khác : đó là cây đại thụ ( đại mộc ) Bằng Lăng sừng Lagestroemia cornuculata ( L. venusta , L. undulata ), tuổi đã gần 300 năm . Thân chính gốc có đường kính trên 3m , mọc thêm 6 thân phụ màu ngà ngà, hoa to 1.5cm x 1,5 cm có 6 sóng tận cùng như sừng. Và nhiều lọai cây lạ lùng khác: tỉ như cây gõ đỏ - gỏ cà te – tò te tên khoa học là Afzelia xylocarpa ( Pahudia xylocarpa , P. cochinchinensis , họ phu điệp Cesalpinia , đường kính 3.7 m ( cây gõ đõ thân to hơn ở Cẫm Mỹ - Cẩm Đường tỉnh Long Khánh cũ, đã bị quân tham lam gỗ tốt đốn bán mất sau năm 1963 ), cây đề ( si, xanh, gừa ) benjamina fig ( weeping gig ) Ficus banjamina họ Dâu Tằm Moraceae, không có rễ rủ từ nhánh, nhưng bó rễ mọc chạy dài theo dòng sông, cây cao đến 14 m, tán lá rậm rạp cho thể che bóng mát cho 20 người, đồng thời cũng là một lọai cây đa có thân trống rổng, đủ làm dù che cho 3 người núp mưa, tránh nắng. Sông Đồng Nai là biên cương thiên nhiên bọc ba phía Công viên Cát Tiên. Tả ngạn thường là các làng, vườn tượt xây cất sát bờ sông. Hửu ngạn là rừng hoang dã, tán xanh sơ khai. Rất nhiều lòai chim chóc làm tổ trên tán cao. Trong rừng sơ khai nguyên thủy tìm thấy nhiều lòai động vật của vùng thấp Đông Trường Sơn và Tây Nguyên .
Chùa Bửu Phong thiết lập trên núi Bửu Long vào thế kỷ thứ 17, vào năm 1679, cũng chỉ cách thị xã Biên Hòa chừng 7km. Muốn đến chùa, phải leo gần 100 bậc tấm đá. Trong chùa có vài tượng Phật bằng gỗ, chạm trỗ tinh vi, kiểu điêu khắc Á Châu Trước tiên chùa lợp mái tranh, vách đất, nhưng sau đó Hòa thượng Pháp Thông lợp mái ngói trang trọng hơn .Chùa được trùng tu và mở rộng thêm năm 1829. Và gần đây mới được trùng tu thêm.
Cỗ Mộ Hang Gòn ( hay Gòn ? ) đã được chánh quyền xếp hạng di tích văn hóa lịch sử nước nhà, tuổi đã hơn 2500 năm . Đặc điểm là cổ mộ được xây bằng những tấm bảng đá bằng phẳng, kiểu cỗ điễn hình “ Đôn Men – Dolmen” Đông Nam Á. Cỗ mộ được khám phá ở làng Xuân Tân huyện Xuân Lộc, cách Biên Hòa 80 Km. Đáng tiếc là địa phương cũng như trung ương, đã để hoang phế nhiều năm qua, đền thờ Chưởng dinh Nguyễn hửu Kỉnh ( Cảnh ) ở cù lao Phố !...
Sẽ tiếp theo :
Phần B : lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai - Biên Hòa.