Lên mạng ngày 21/12/2011
Lạm bàn phát triển tỉnh Bắc Ninh
GS Tôn Thất Trình
Phần II : Lạm bàn phát triễn tỉnh Bắc Ninh
Khái niệm một quốc gia công nghệ
Năm 1996, Việt Nam đã tự cho là đang ở giai đọan” cất cánh phát triễn kinh tế” khi Tổng Giá trị Sản phẩm Nội địa-Gross Domestic Products( GDP) đạt khỏang trên 200 đô la Mỹ ( USD ) mỗi người ( vào năm 1990 ), tuy rằng đến năm 2000 dự kiến cũng chỉ dưới 600 USD, theo cách xếp hạng của Ngân hàng Thế giới vẫn thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp kém. Dự kiến đến năm 2020, GDP trên mỗi người sẽ đạt trên 2000 USD , chỉ mới tương đương mức quân bình của các Nước Công nghiệp Mới – Newly Industrializing Country ( NIC ) ở giữa thập niên 1980, nằm trong số các nước có mức thu nhập trung bình, mặc dầu vẫn còn dưới mức quân bình GDP/ người tòan thể thế giới. Và đến năm 2020, Việt Nam sẽ có cơ cấu kinh tế căn bản của một nước công nghiệp. Nhắc lại là một nước muốn được xem là NIC phải có GDP xấp xĩ bình quân tòan thế giới, thu hút tập trung vốn đầu tư của các tổ chức đa quốc gia, tiến tới có sản phẩm công nghiệp chế biến hiện đại xuất khẩu với qui mô lớn, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cao 8-10% hàng năm và liên tục nhiều năm, tỉ trọng dân cư đô thị vượt trên 50 % dân số cả nước v.v … Tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 1990-95 là 8.2%, năm 1995 trên 9% , tương đương mức tăng trưởng các nước mạnh Đông Nam Á ( Singapore 9%, Thái Lan 8.5%, Malaysia 9.3 % ). Sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận và Việt Nam tham gia ASEAN, đầu tư nước ngòai vào Việt Nam cuối năm 1995 tăng gần gấp đôi, so với số đầu tư giai đọan 1988- 1994 , nâng tổng số vốn đầu tư của nước ngòai vào Việt Nam lên trên 18 tỉ USD . Cơ cấu kinh tế trong nước bắt đầu chuyễn biến theo hướng công nghiệp hóa; tỉ trọng các ngành công thương nghiệp dịch vụ tăng lên. Tỉ trọng nông nghiệp ở GDP giảm dần từ 39,5% năm 1991 xuống 28.7% năm 1994. Công nghiệp chiếm tỉ trọng 29.5 % , dịch vụ là số còn lại. Dự kiến năm 2000, nông lâm ngư nghiệp sẽ chỉ còn 19- 20 % ; công nghiệp và xây cất căn bản tăng lên đến 34- 35 % và dịch vụ tăng lên đến 45 – 46 % .
Theo Dự án Trung Ương - Hà Nội năm 1982, phân chia phát triễn kinh tế Việt Nam thành 5vùng kinh tế lớn. Bắc Ninh thuộc Vùng I là Vùng Đông Bắc Bắc Bộ gồm 10 tỉnh : Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Trung tâm Vùng I là Hải Phòng. Vùng I có diện tích là 40 000 km2 , dân số năm 1999 là 14 triệu. Tài nguyên chánh là than, sắt, kim lọai màu , đá vôi, kaolin- caolanh, khí dầu, lâm sản, hải sản , cảng quan du lịch, nghĩ mát. Nông nghiệp vùng I có sản lượng lương thực bình quân cao trên trung bình cả nước và chiếm 80% sản lượng đay , 30% sản lượng cói, 1/3 sản lượng rau quả và gia súc cả nước… Bắc Ninh của Vùng I là một tỉnh nghèo về tài nguyên khóang sản . Các khóang sản chủ yếu là phi khóang ( vật liệu xây dựng) như đất sét làm gạch ngói, gốm với trử lượng không lớn - khỏang 4 triệu tấn - ở Quế Võ , Tiên Du và thị xã Bắc Ninh, đá cát kết trử lượng khỏang 1 triệu tấn ở Thi Cầu – Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh – Bắc Ninh, trử lượng 3 triệu m3, than bùn ở Yên Phong trử lượng khỏang 60 – 200 000 tấn. Vì vậy cho nên chuyễn dịch qua hướng công nghệ xây cất Bắc Ninh từ năm 1995 đến năm 2000 có phần chậm trễ , khu vực nông nghiệp năm 1999 vẫn còn chiếm 35. 9% GDP tỉnh nhà , tuy cũng đã giảm xuống từ 51.55 % năm 1995. Trong công nghiệp, chỉ có xây dựng tăng khá nhanh từ 8.0 % năm 1995 lên 29.5 % năm 1999. Dịch vụ cũng tăng khá chậm từ 27.6 năm 1995 và 29.0% năm 1996, lên 31.15% năm 1998 và 34.6 % năm 1999. Năm 1999 về qui mô GDP, Bắc Ninh đứng thứ 42 , GDP/ người thứ 35, thu ngân sách thứ 56 trong số 61 tỉnh, thành phố cả nước.
Nhiều cố gắng đáng kể mới đây về công nghiệp hóa Bắc Ninh
Từ năm 1990 đến năm 2000, nhìn chung các cơ sở công nghiệp Bắc Ninh có quy mô nhỏ và tiểu thủ công nghiệp, tuy phân bố tương đối đều trên tòan tỉnh. Năm 2000, chỉ thiết lập được 2 khu công nghiệp đáng kể là khu công nghiệp Từ Sơn, thuộc các xã Đồng Nguyên , Hòan Sơn , Nội Duệ nằm sát Từ Sơn cách Hà Nội 23 km, giữa quốc lộ 1A cũ và quốc lộ 1B mới, gần đường sắt đường thủy và sân bay quốc tế Nội Bài, dự trù phát triễn chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất các sản phẩm thêu, may mặc, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử, tin học, tự động hóa ( rôbốt ), sản xuất bao bì, giấy, nhựa, xốp. Khu công nghiệp tập trung Quế Võ thuộc xã Phương Liễu – Vân Dương ( Quế Võ), cách thị xã Bắc Ninh 6km, nằm bên quốc lộ 18 ( Bắc Ninh- Phả Lại ) và gần giao điểm hai quốc lộ 18 và quốc lộ số 1B mới. Dự trù phát triễn ở khu Quế Võ một số ngành công nghiệp nặng chế tạo các sản phẩm vật liệu xây dựng cao cấp, cơ khí, phân bón hóa học, và các ngành công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp. 5 cụm công nghiệp hình thành ở Bắc Ninh năm đó là cụm Lạc Vệ chuyên chế biến thực phẩm, dệt, da; cụm Thuận Thành chuyên chế biến có quy mô vừa và nhỏ; cụm Đình Bảng chuyên về các nhành vật liệu xây dựng, cơ kim khí vừa và nhỏ, sành sứ gốm; cụm Đông Tiên- Hàm Sơn ( Yên Phong ) chuyên các ngành bảo quản chế biến nông sản thực phẩm , sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, dệt may, phân hửu cơ vi sinh… ; cụm Phá Lãng chuyên chế biến nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng cao cấp, dệt may … quy mô vừa và nhỏ .
Mười năm sau , tính đến năm 2010 , Bắc Ninh khởi sự một phục hưng đầu tư khi các hảng tòan cầu khổng lồ như Canon, Foxcom , Samsung, Orion, Sumitomo và ABB chọn Bắc Ninh xây dựng cơ sở ở Việt Nam . Các hảng này cũng làm nam châm từ tính giúp các hảng khác thịnh vượng thêm ở tỉnh nhà. Lợi dụng hòan thành các xa lộ cao tốc, đường xe lữa Xuyên Việt cải thiện ( đọan Yên Viên –Bắc Ninh dài 20km ) và đường sông đáng kể, kế cận thủ đô Hà Nội …., Bắc Ninh nhắm mục đích trở thành một trung tâm phát triễn kinh tế quan trọng cho Tam giác Kinh tế Hà Nội- Hải Phòng – Quảng Ninh. Trước hết, phát huy tiềm năng lớn lao các khu công nghiệp cận đại. Bắc Ninh nay đã thiết lập 15 khu công nghệ( công viên công nghệ ) tập trung , tổng số diện tích là 7 681 ha ( 6847 ha cho khu công nghệ và 834 ha cho khu đô thị ); 10 khu này đã đầu tư xong xây cất và hoạt động với hạ tầng cở sở tân tiến như hệ thống giao thông nội khu, hệ thống điện thắp sáng và cho sản xuất, hệ thống nước sạch, hệ thống trị sạch nước thải ống cống, đúng theo nhu cầu hiện đại của các nhà đầu tư. Phát triễn các khu công nghệ tập trung Bắc Ninh được quy họach kỹ lưỡng, nối kết phát triễn xã hội kinh tế giữa nhiều vùng trong tỉnh nhà, giữa các khu công nghệ và các nhóm khác, giữa Bắc Ninh và các địa phương lân cận. 15 khu công nghiệp tập trung là : Tiên Sơn , Đại Đồng- Hòan Sơn , VSIP- Việt Nam Singapore Industrial Park, ,Hanaka và Từ Sơn ở xa lộ 1, Yên Phong I, II ở xa lộ 188, Quế Võ 1, 2, 3 , Đại Kim và Nam Sơn – Hạp Linh ở quốc lộ 18 , Thuận Thành 1, 2, 3 và Gia Bình phía Nam sông Đuống ( chiếu theo Nguyễn Nhân Chiến, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh ).
Kể từ cuối năm 2001, khi khu công nghệ cận đại tập trung đầu tiên,rộng 134 ha giai đọan đầu, được phát triễn ở Tiên Sơn, đến tháng 11 năm 2010 Bắc Ninh tuần tự đã đưa vào hoạt động thêm 9 khu công nghệ nữa là Tiên Sơn , Đại Đồng , Hòan Sơn, Quế Võ , Yên Phong I, VSIP Bắc Ninh, Yên Phong II Thuận Thành 3, Quế Võ 2 , Nam Sơn- Hạp Linh . Mọi công viên công nghệ đều có những thành phần quan trọng các dự án đầu tư ngọai quốc và trong nước, tạo những điều kiện thuận lợi tiếp nhận những kỷ thuật tiên tiến, tăng cường các sác xuất tăng trưởng công nghiệp, chuyễn hướng cấu tạo kinh tế và lao động, góp phần phát triễn kinh tế xã hội Bắc Ninh.
Đến cuối tháng 5 năm 2010, các công viên công nghệ đã sử dụng 44 506 nhân viên lao động , gồm 21 906 nhân công địa phương, nghĩa là 49.2 % tổng số người đến tuổi lao động tỉnh nhà. Vào cuối năm 2009, có 15 quốc gia và lảnh thổ thế giới đầu tư ở các công viên công nghệ Bắc Ninh . Gần đây nhất là các dự án lớn FDI của những tổ hợp đa quốc gia như Canon ( Nhật Bổn ), Sam Sung ( Hàn Quốc – Nam Hàn ) và ABB ( Thụy Điển ) đầu tư mạnh mẽ vào các lảnh vực điện, điện tử, viễn thông và công nghệ chính xác – precise engineering. Tính đến cuối tháng 3 năm 2009, các công viên công nghệ Bắc Ninh đã đầu tư tư bản tổng gọp là 3.126 tỉ USD, gồm luôn 359 triệu USD ở ngành công nghệ- engineetring sector , 178 triệu USD vào chế biến thực phẩm, 62 triệu USD vào vật liệu sản xuất, 1 621 triệu USD vào điện tử và viễn thông và 915 triệu USD ở những lảnh vực khác. Nam Hàn dẫn đạo các nhà đầu tư ngọai quốc ở Bắc Ninh với 46 dự án tổng cọng tư bản là 989.8 triệu USD. Tiếp theo là Nhật Bổn với 36 dự án trị giá 404 .4 triệu USD, Đài Loan 18 dự án trị giá 218.2 triệu USD, Singapore 13 dự án trị giá 172 triệu USD, Hồng Kông 15 dự án trị giá 100.69 triệu USD, Trung Quốc 11 dự án trị giá 32.59 triệu USD, Liên Hiệp Âu Châu 3 dự án trị giá 34 triệu US và các quốc gia khác 35 dự án trị giá 285,27 triệu USD.
Năm 2009, gía trị sản xuất công nghệ Bắc Ninh là 19 421 tỉ đồng Việt Nam ( VND). Năm 2010 đạt hơn 23 000 tỉ, cao hơn chỉ tiêu 11,4 % và chỉ tiêu cho 2011 là 38 600 tỉ VND ( ? ). Năm 2009, tỉnh xuất khẩu 1004 triệu USD ; năm 2010 ước lượng 1 485 triệu và chỉ tiêu cho năm 2011 là 1782 triệu. Năm 2009, nhập khẩu vào tỉnh là 881 triệu USD, năm 2010 ước lượng 1214 triệu và chỉ tiêu cho năm 2011 là 1457 triệu. Năm 2009, dự trù 36 doanh nghiệp mới , năm 2010 ước lượng 30 doanh nghiệp mới, năm 2011 chỉ tiêu là 34. Năm 2009, tư bản đầu tư là 326 triệu USD, năm 2010 ước lượng 350 triệu, cao hơn chỉ tiêu là 300 triệu . Dự án đầu tư năm 2009 là 51, năm 2010 là 50 cao hơn số chỉ tiêu là 35 và năm 2011 chỉ tiêu là 40. Nhờ đóng góp của những họat động doanh nghiệp tại các công viên công nghệ, từ năm 2007 đến năm 2011, Bắc Ninh đã tiến lên hàng thứ 6 trong số chỉ tiêu khả năng cạnh tranh các tỉnh tòan quốc.
Các sản phẩm xuất tỉnh hiện nay là áo quần, đồ in, điện tử , bàn ghế và tiểu công nghệ mỹ phẩm… Đến giữa năm 2011, các khu công nghệ sẽ tụ điểm vào các lảnh vực cao kỹ- high tech, thân thiện môi sinh , kỷ thuật sạch hầu trở thành một trong ba tỉnh có đầu tư ngọai quốc FDI cao nhất nước và chuyễn hướng cơ cấu kinh tế theo một chiến lược tân tiến và bền vững để trở thành một tỉnh công nghệ vào năm 2015 ( ? )
Sau đây là sơ lược vài tổ hợp đầu tư ở Bắc Ninh
*Tổ hợp Kỷ thuật chính xác - Precision Technologies MiTAC Đài Loan, đã khánh thành tháng 10 năm 2005, một cơ sở công ty ở công viên công nghệ Quế Võ là MiTac Precision Technology – MPT . Nhà máy lớn MPT Việt Nam là nhà máy thứ ba chế tạo hội nhập thẳng đứng – vertically integrated manufacturing của Tổ hợp MiTAC International Group, sau các nhà máy MiTAC Shunde ở tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc và MiTAC Kunshan ở tỉnh Giang Tô. Nhà máy Quế Võ này chiếm 134 600 m2, đầu tư trị giá 15 triệu USD. Giai đọan đầu, hòan thành giữa năm 2006, để sản xuất giữa năm 2007 chế tạo những sản phẩm điện tử như các máy in – printers , máy chụp hình kỷ thuật số- digital cameras, các máy chạy DVD , hộp đựng và các bộ phận điện thọai di động. Riêng máy in sẽ sản xuất 350 000 máy một tháng. Các chức năng nhà máy nới rộng sau 2007, sẽ gồm luôn cả họa kiểu và phát triễn khuôn đúc tiêm – injection molds . Giai đọan đầu sẽ sử dụng 1000 nhân viên giáo dục tỉnh cấp cao. Năm 2007, lợi tức đã trên 1 tỉ đô la NT và dự trù đầu tư và tuyễn thêm nhân viên, triễn khai nhà máy biến MPT Việt Nam thành một nhà máy kích thước lớn chế tạo hội nhập thẳng đứng của Tổ hợp. Ngòai việc kế cận thủ đô Hà Nôi, so với nhiều tỉnh khác nhân côngBăc Ninh tương đối rẽ, nhiều cán bộ chuyên viên giáo dục đào tạo tốt, chánh phủ Việt Nam có chánh sách muốn phát triễn công nghệ cao kỹ, một khung cảnh luật pháp, hành chánh và thuế khóa khích lệ đầu tư ngọai quốc, công viên công nghệ Quế Võ gần nhà máy MiTAC Quảng Đông có hệ thống xe lữa và xa lộ nối mau chóng hai nhà máy; hơn nữa một khách hàng của Tổ hợp là Tổ hợp Canon cũng đầu tư thiết lập một nhà máy mới ở công viên Quế Võ, nên tổ hợp có nhiều khích lệ, khả năng mở rộng thêm trong tương lai.
* Nhà máy Không Khí Lõng – Air Liquide Việt Nam. Sau 11 năm họat động thành công ở Việt Nam , ngày 7 tháng chín năm 2007, Công ty Việt Nam Industrial Gases. Ltd – VIG , một hợp doanh giữa Air Liquide-Pháp, BOC – Vương Quốc Anh và Sumitomo - Nhật Bổn, đổi tên thành Air Liquide Việt Nam, ltd- ALV. Từ năm 1999 đến nay , Đơn vị Phân Chia Không Khí- Air Separation Unit đầu tiên ở Bắc Ninh họat động tốt đẹp cung cấp cho khách hàng và người cùng công ty ở miền Bắc, ALV đã quyết định hăng hái đầu tư cả ở miền Bắc lẫn miền Nam. Đơn vị thứ hai phân chia không khí ở miền Bắc đi vào họat động năm 2007, để cung cấp tốt hơn yêu cầu tăng gia của khách hàng. Air Liquide Việt Nam triễn khai thị trường ở miền Nam , xây dựng đơn vị thứ ba Air Separation ở công viên Phú Mỹ 1, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu và đã được Công Viên Cao Kỹ Sài Gòn chấp thuận cho xây dựng thêm một đơn vị Air Separation thứ tư ở công viên này. Air Liquide cung cấp khí – gases qua đường ống dẫn – pipeline( nitrogen, hydrogen ), ngay tại vị trí nhà máy ( nitrogen , hydrogen ), chất lỏng ở các thùng chứa , tồn trữ ( oxygen , nitrogen , argon ) và khí ép – compressed gases ở xy lanh – cylinders. Các sản phẩm của Air Liquide cũng gồm cả Helium Lỏng - Liquid Helium, những trộn lẫn khí đặc biệt và cho la bô, cách định cở các khí nhập khẩu từ các công ty chị em các quốc gia khác ( Singapore, Pháp, Hoa Kỳ ).
* Công ty Cố Vấn Sản xuất công nghệ Thụy Điển ABB – Royal Haskoning thành lập năm 2008- 2009, ở khu công nghệ Tiên Sơn có diện tích sàn là 11 250m2 , cung cấp dịch vụ cố vấn thiết lập công nghệ từ quan niệm họa kiểu đến hòan tất .
….
Đô thị hóa Bắc Ninh hội nhập với phát triễn các công viên công nghệ tập trung
Đến năm 2000, Bắc Ninh có 2 hệ thống quần cư chủ yếu : quần cư nông thôn và quần cư thành ( đô ) thị. Loại hình quần cư nông thôn phỏng theo địa thế ,thủy văn, đất đai truyền thống gồm 3 kiểu :
- quần cư ngòai đê, bải bồi rộng và tương đối cao, dân cư thường sống tập trung thành từng làng chạy theo sườn ngòai đê Có nhiều xã dân gian sống hầu hết ngòai đê như Thượng Mao, Hòai Thượng( Thuận Thành ), Cảnh Hưng ( Tiên Du ). Kiểu quần cư này giúp dân gian có thể khai thác những vùng đất mới ở ngòai đê. Khi nước lũ lên cao, dân cư có thể mau lẹ dời những đồ đạc cần thiết của gia đình lên trên mặt đê
- quần cư trong đê, ở bên cạnh các con sông lớn có đê bao bọc, diện tích ven đê tương đối rộng, dân cư lại sống trong các làng chạy theo sườn sát trong đê. Kiểu quần cư này thường gặp ở các xã nằm cạnh sông Cầu, sông Đuống. Làng xóm phát triễn theo chiều dài của các bải bồi, giúp dân gian vừa khai thác những vùng đất trong đê, vừa khai thác những bải bồi ngoài đê.
- quần cư vùng đồng chiêm trũng, ngập nước quanh năm, dân gian phải sống tập trung ở những vùng đất cao. Làng xóm ở đây không phát triễn tự do vì phụ thuộc vào các gò đất cao, hoặc phải vượt thổ lên để làm nhà. Kiểu quần cư này thường thấy ở các xã ven sông Cầu và các xã Âm Thịnh, Mỹ Lượng ven sông Đuống.
Quần cư đô thị vẫn còn theo tiến trình đô thị hóa chậm ở thị xã Bắc Ninh và 5 thị trấn huyện lỵ. Thị xã Bắc Ninh diện tích 265km2, dân số năm 1999 chỉ là 71 000 người, 54 % tập trung ở 5 phường với 38.400 người, còn lại ở 4 xã thuộc thị xã. Cũng vào năm 1999, 90.6 % dân tỉnh sống chủ yếu ở nông thôn, dân cư thành thị tập trung ở các thị trấn và thị xã Bắc Ninh chỉ chiếm 9.4 % dân số.
Nay thị xã Bắc Ninh được xác nhận là một thị trấn vệ tinh quan trọng của phát triễn Vùng “Đại Hà Nội- Hà Tây” và có hạ tầng cơ sở, tài nguyên nhân sự tốt, nằm trong trọng điểm tam giác tăng trưởng then chốt cho đồng bằng sông Hồng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, nên đã có mức phát triễn mạnh mẽ từ 5 năm nay. Nhắc lại các đường xá quan trọng là xa lộ quốc gia số 1B nối Hà Nội -Bắc Ninh – Lạng Sơn, Xa lộ Cao tốc- Expressway số 18 nối phi trường quốc tế Nội Bài- Bắc Ninh – Hạ Long và quốc lộ 18 nối Bắc Ninh – Hải Dương – Hải Phòng. Hầu giúp mức đô thị hóa mau lẹ hơn, mọi quy họach mới về công viên công nghệ tỉnh nhà, đều được qui họach cùng một lúc với các phát triễn đô thị, dịch vụ và cư xá. Như đã nói trên, trong diện tích 7681 ha ở 15 khu công viên công nghệ, 834 ha dành cho phát triễn các khu đô thị. Đáng kể ra là các dự án hội nhập phát triễn thị trấn – townships với khu công nghệ của Công ty Công viên Công Nghệ Việt Nam Singapore Industrial Park- VSIP theo kiểu phát triễn đô thị Singapore ( có lẽ nên chiếu theo trang trí, họa kiểu những kiến trúc Việt Nam cỗ truyền hay tân thời hơn là quá thiên về những họa kiểu Tàu- Trung Quốc ? ), biến viễn cảnh đồng quê thành những giải đáp công nghệ, thương mãi và cư xá, sử dụng lề lối quy họach đô thị cải tiến và tiện nghi cận đại. 4 dự án VSIP( 2 ở tỉnh Bình Dương, một ở Hải Phòng, một ở Bắc Ninh )tại Việt Nam chiếm 4854 ha diện tích sàn, diện tích đất khu công nghệ bán được là 1940 ha và diện tích thương mãi - cư xá là 1170 ha. Diện tích VSIP Bắc Ninh là 700 ha. Cư dân ở công viên này có thể đến thủ đô Hà Nội trong vòng 30 phút, vì chỉ cách Hà Nội có 20km. Dự án cũng liên kết với các cửa khẩu Việt Nam -Trung Quốc, cách hai của khẩu Tân Thành – Hửu Nghị chừng 140 km, mở rộng thêm thị trường Bắc Việt và Nam Trung Quốc. Trung tâm hậu cần tại địa điểm gồm các cơ sở kho hàng giữ hàng hóa lại trước khi thuế được nộp hay không nộp – bonded and non -bonded warehouses .
Theo quy họach đến năm 2020, Bắc Ninh dự tính thực hiện mạng lưới đô thị kế cận Hà Nội. Những thị trấn lớn đã thành thị hóa như thị xã Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, các vùng thành thị ở Tiên Sơn và Nam Từ Sơn sẽ là vùng thành thị vệ tinh của Hà Nội. Trung bình đất thành thị sẽ là 45m2 mỗi người, đưa diện tích thành thị hóa Bắc Ninh lên 2 529 ha. Khoảng 379 ha hay 15 % đất thành thị Bắc Ninh dành cho cư dân thủ đô. Thành quả là tổng số đất thành thị tỉnh nhà sẽ tăng thêm đến 2 908ha, nghĩa là 1290 ha cao hơn năm 2010. Các khu cư xá quanh các thị trấn sẽ được duyệt xét lại, hướng về thành thị hóa, và đất gia cư sẽ phát triễn mô hình nông trang- vườn hoa, nhà cửa có tường, ban công trang trí các lòai hoa đẹp nhiệt đới hay bán ôn đới tuyễn chọn, quí hiếm, hầu cung phụng cho yêu cầu du lịch như các gia cư dọc sông Thames, Anh Quốc v.v… Điều quan trọng, ngòai vấn đề đền bù đứng đắn đất đai bị trưng dụng, cố gắng kiểm sóat kỷ xây cất, nhất là cao tầng cho vững chải, cảnh quan phỏng theo kiến trúc Việt Nam mới - cũ nhiều hơn, theo dõi thị trường, tài chánh và tiền vay ngân hàng …tạo bất động sản, tránh nạn nổ bong bóng- bubble hay lừa gạt trong ngành, có cơ xảy ra như trên thế giới hiện nay và cũng đang lộ diện ở Trung Quốc, như ở Việt Nam .
Dịch vụ du lịch
Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu Bắc Ninh chỉ đạt 7 triệu USD. Đến năm 1999 tăng lên 18 triệu USD. Bình quân là 18USD mỗi đầu người, tương đối thấp so với bình quân của cả nước. Như đã nói trên, năm 2010, xuất khẩu Bắc Ninh đã là 1450 triệu USD, 15 lần cao hơn dự kiến năm 1999 là khoảng 100 triệu USD cho năm 2010. Nhờ thị xã Bắc Ninh, thị trấn Từ Sơn, các khu công nghệ tảp trung … được đầu tư xây dựng thành những trung tâm thương mại – du lịch- văn hóa tỉnh, có hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, mạng lưới chợ…. nâng cấp và hiện đại hóa. Đặc biệt phát triễn mạnh là du lịch .
Năm 2010, lợi tức du lịch Bắc Ninh đạt 125 tỉ VND, thu hút 200 000 du khách, mức tăng trưởng là 17- 20% mỗi năm. Năm 2015 hy vọng sẽ đạt lợi tức 250 tỉ VND , đón mời 400 000 du khách. Nếu cải tiến thêm hạ tầng cơ sở ( đường xá liên huyện liên xã …, hệ thống vệ sinh, tổ chức quét dọn sạch mau lẹ rác rưới sau mùa hội hè, làm thêm nhiều khách sạn 3-4 sao … thì tăng trưởng ngành du lịch còn mạnh hơn nữa. Bắc Ninh là một thị trấn xưa cũ, một trung tâm thương mãi Việt Nam từ thế kỹ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10. Phật giáo du nhập tỉnh rất sớm và nở rộ đời nhà Lý như chúng ta đều biết. Nhiều chùa, đền, đình làng đã được xây dựng, một số đã kể ra ở phần I. Nhiều lễ hội được tổ chức hàng năm ở các nơi này, đặc biệt trong tiết xuân. Dặc biệt là hội Lim , hội Đền Đô , hội Đề Bà Chúa Kho và hội đền Dâu …
Hội Lim được tổ chức ngày 13 tháng giêng âm lịch trên Đồi Lim thuộc xã Lũng Giang, huyện Tiên Du, đến được theo quốc lộ số 1, chỉ cách Hà Nội 18km. Tục truyền trên Đồi Lim, dưới bóng cây um tùm có một ngôi chùa cổ, một người đàn bà tên là Mụ Ả, người Duệ Đông đến tu ở đó, đắc đạo có phép hô phong hóan vũ. Mỗi khi hạn hán, dân thường cầu bà “hóa phép “ làm mưa, linh ứng như thế nên làng Lim tôn bà làm thành hòang. Hội Lim tổ chức vào ngày bà mất. Hội Lim xưa có nhiều trò vui như đánh cờ, đánh đu, đô vật , bơi … Những trò mang dấu ấn văn hóa vùng Kinh Bắc nổi tiếng là nước ngựa chiến, thi thổi xôi, làm cỗ gà, thi làm bánh vừng ( mè ), chè đu đủ, thi dệt vải, bình thơ, xướng đối … Và dĩ nhiên trung tâm của ngày hội Lim là hát Quan họ với ba điểm hát:
- hát ngòai đồi : trên đồi Lim vào ngày hội các liền anh ( tài tử nam ), liền chị ( tài tử nữ ) đi chơi thành từng nhóm nhỏ. Bên Nam nếu chưa có bạn thì tìm bên nữ mời họ xơi trầu. Nếu nữ nhận trầu tức là nhận lời hát ( cũng có khi nữ mời nam ). Trong khi hát với nhau, nếu thấy cách ăn ý về giọng hát và cách đối xử, họ còn hẹn nhau đến ngày nào đó gặp lại xin kết nghĩa “ Nghĩa Quan Họ”. Khi hát ngòai đồi bất kể nắng mưa, nam đều che ô ( dù ), nữ đều đội nón thúng quai thao, vừa tình tứ vừa e ấp. Họ ăn mặc theo theo lề lối ngày hội của dân vùng Quan họ.
- hát trong nhà : Những nhóm Quan họ khách đã được hẹn mời trước buổi sáng cứ đến thẳng hội. Phía chủ nhà, từng nhóm Quan họ đã đóng góp tiền cho một bà trùm cử người chịu trách nhiệm đăng cai “ làm cơm Quan họ” Sáng ấy, một số người ra chùa đón khách. Quan họ bạn vào đến cổng là hát mừng làng đầu năm mới, mừng nhà, mừng bạn. Buổi hát bắt đầu rất tự nhiên. Quan họ chủ đứng ở sân hát đón khách, đưa khách vào nhà cất nón ( cất ô) rồi ngồi xuống hai giường của hai gian cạnh hay hai bên tràng kỷ bàn khách gian giữa, đối diện nhau hát tiếp. Hầu hết mọi việc, từ mời trầu, mời nước hỏi thăm, nói chuyện đều bằng câu hát. Hát đến trưa, phía chủ mời khách ăn cơm, lời mời cũng hát. Buổi chiều, Quan họ mời khách đi xem hội và tối về lại hát tiếp.
- Hát trên thuyền: Từng cặp trai gái bơi trên những chiếc thuyền thúng dưới ao, hồ hay trên lòng sông làng. Bịu hát đối đáp nhau say sưa. Trên bờ người xem với đủ màu sắc áo quần ngày hội, lắng nghe, bình phẩm về giọng hát, lối hát để đến lượt mình vào cuộc. Ngày hội trôi qua thật mau lẹ trong lôi cuốn của những giọng hát say đắm, để rồi Quan họ lại bịn rịn chia tay, chẳng muốn về. Người đi rồi mà “ em vẫn trông theo, trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”. Người đi để lại bao nhớ nhung, mong sao mau chóng đến ngày hội năm sau.
Hát Quan họ hình như phát sinh từ đời nhà Lý , tiến trào từ hát đùm. Đa số hát Quan họ tỏ bày niềm thương yêu nhau : hy vọng, nhớ nhau, ghen tuông… nhưng không bao giờ tỏ cảm giác tình dục cả . Không có bài hát Quan họ nào nói về công việc đồng áng. Không có anh( chị ) Bảy, Tám, Anh chị Hai bé , anh chị Ba bé… ở các nhóm Quan họ. Khi họ hát thề thốt làm bạn – brother hood , nhưng cấm không được cùng nhau kết hôn. Các nhà khảo cứu say mê Quan họ hiện nay là Toan Ánh, Bùi Trọng Hiền. Nhạc sĩ quan trọng nhất về Quan họ là Đức Miêng ( 165 bài hát ). Ca sĩ Quan họ nổi tiếng nhất là Thùy Hương – Thùy Cái. Cử chỉ ngôn ngữ Quan họ là “Người Quan họ nói “như có văn có sách”. Lời như thơ văn tình tứ, có đặc điểm của ca dao, ngụ ngôn, truyện Kiều … Vùng địa lý tiếng hát Quan họ là dọc theo hai bên bờ sông Cầu,phía bắc Hà Nội tại 49 làng dân ca cũ , 44 làng ở Bắc Ninh và 5 làng ở Bắc Giang . Ngày 30/9/2009, Cơ quan Văn hóa – Giáo dục Quốc tế UNESCO nhìn nhận Quan họ là di sản văn hóa quốc tế. Năm 2010, tuần báo Hoa Kỳ “Time Magazine” đã công nhận Quan họ là “ hay nhất cho tâm hồn – the best for soul” Nay đã có thể nghe hát Quan họ qua điện thọai, chỉ cần gọi điện thọai cho các nghệ sĩ hát Quan họ.
Hội Đền Đô ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn. Lễ hội chính nhằm ngày16 tháng 3 lúc Lý Công Uẩn ( Lý Thái Tổ ) lên ngôi vua, đám rước linh đình có hàng ngàn người tham dự, từ Đền Kim Đài đến Đền Đô, dài 3km. Lảnh đạo là các quan võ, trần truồng, có hàng trăm quân hầu theo sau. Rồi đến đám rước có 10 người mặc áo quần, đầu đội mủ đỏ đen. Đứng đầu đám rước Thánh Mẫu là 18 nữ tướng theo sát Bát Đệ ( ? ) , có ngựa theo sau cùng 10 nam nhân mặc tòan đỏ. Cuối cùng là các bô lảo làng mặc đồng phục. Lễ hội tổ chức nhiều trò chơi như chọi gà, thả bồ câu, đô vật, hát hỏng cùng nhiều trò chơi khác .
Hội Thánh Dóng ( Gióng ) tổ chức trong nhiều ngày với nhiều trò vui, song ngày mồng ng 9 tháng tư mới là ngày hội đông vui nhất. Hôm ấy dân gian diễn lại thành tích Thánh Dóng, người đã giúp vua Hùng dẹp tan giặc Ân. Nghi lễ về cuộc chiến tranh, trang phục binh bị thời cỗ, tinh thần quyết chiến của quân tướng.. . tất cả đều được diễn tả bằng những hình thức tượng trưng rất sinh động. Các em nhỏ và các ông Hiệu cờ, Hiệu Chiêng … đóng làm quân ông Dóng. Còn 28 thiếu nữ đóng tượng trưng là quân giặc. Trong khoảng đất trống làm trận địa đã trải sẳn 3 chiếc chiếu. Trên chiếu có chiếc bát úp trên tờ giấy: chiếu tượng trưng cho cánh đồng, bát cho đồi núi, tờ giấy cho mây. Khi cuộc giao tranh bắt đầu, cờ lệnh được phất lên kéo theo hàng ngàn mảnh giấy sặc sở tung ra. Dân gian xô nhau cướp lấy để làm khước… Khi xé xong 3 chiếc chiếu thì quân giặc cũng tan. 28 cô gái lên kiệu về làng Phù Đỗng.
Các hội khác là -hội Đông Hồ diễn ra từ ngày 4 đến ngày 7 tháng giêng tại đình làng Đông Hồ, huyện Thuận Thành. Đây là một lễ hội mang tính chất hội làng nghề, nơi sản xuất tranh dân gian nổi tiếng. - hội Chùa Phật tích thường diễn ra từ ngày 4 đến ngày 5 tháng giêng âm lịch tại chùa Phật Tích, nhằm tưởng nhớ công ơn vua Lý Thánh Tông. - lễ hội chùa Dâu vào ngày 17 tháng giêng âm lịch tại làng Dâu-Thanh Khương, huyện Thuận Thành mở vào ngày sinh của Phật Mẫu Man Nương, tiêu biểu cho sự hội nhập của tín ngưỡng nông nghiệp vào đạo Phật. - hội chùa Tổ diễn ra tại làng Vạn Ty, Thái Bảo huyện Gia Bình quê hương của Huyền Quang Lý Đạo Tái , một trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Hàng năm tổ chức từ ngày 18 đến ngày 23 tháng giêng âm lịch.
Cải tiến không ngừng và chuyễn hướng nông nghiệp Bắc Ninh để chống đói giảm nghèo
Cho đến năm 2015, nông nghiệp vẫn có thể còn là lợi tức chánh cho 50 %, nữa triệu dân cư Bắc Ninh. Vì GDP nông nghiệp càng ngày càng thấp kém so với công nghệ xây cất và dịch vụ; muốn mức chênh lệch giàu nghèo không tăng nhiều giữa nông thôn và thành thị, phải mau lẹ chuyễn hướng cơ cấu nông nghiệp, lợi dụng tình trạng kế cận thủ đô Hà Nội, tính chất đô thị hóa của nhiều huyện, thị trấn tỉnh nhà và trị giá cao hơn lúa của những lòai rau đậu, cây trái, hoa tươi cắt cành hay không, chậu kiểng hoa, trồng bồn hoa .vv… Cần tăng cường giáo dục kỷ thuật dạy nghề cập nhật hơn cho con em nông thôn gia nhập đông đảo công nghệ, dịch vụ mới tỉnh nhà, bổ sung lợi tức thấp kém gia đình nông thôn, vì hình như đa số công nhân cho công nghệ mới vẫn còn là tự học ( ? )
Trong tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Bắc Ninh năm 1999 là 79 900 ha, diện tích đất sử dụng mục đích nông nghiệp chiếm 62%, lâm nghiệp chiếm 0.5% và chuyên dùng - thổ cư là 21.3 %. Đất chưa sử dụng còn 9.600 ha, tập trung ở Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Thuận Thành, Từ Sơn. Kiểm kê năm 2010, cho thấy Bắc Ninh chỉ còn 43 282 ,93 ha đất nông nghiệp chiếm 52. 61% tổng diện tích đất tự nhiên giảm mất 10% so với hơn 10 năm trước do tình trạng thành thị hóa, mở mang hạ tầng cơ sở … phát triễn kinh tế xã hội tỉnh nhà. Ở hai xã Mộ Đạo và Trúc Ô ( ? ), 300 ha đất công điền –communal land huyện Quế Võ đã bị lấy đi xây cất thị trấn huyện lỵ và khu công nghệ. Nhưng đất đai nông nghiệp lại phân tán ra làm nhiều mảnh, lô – plots nhỏ xíu, trung bình 9.12 mảnh mỗi gia đình, một trung bình manh mún lớn nhất nước, hơn cả những tỉnh đông dân như Thái Bình, Nam Định. Theo báo cáo Ủy Ban Nhân dân tỉnh năm 2006, mỗi gia đình chỉ có 3500m2 mà lại rải rác thành nhiều mảnh ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn ở xã Mộ Đạo ( ? ), điều tra năm 2006, trung bình mỗi gia đình có 8 mảnh đất, mảnh nhỏ nhất chỉ có 48m2, tuy rằng xã chỉ có một hợp tác xã duy nhất. Có khi một mảnh này cách mảnh kia đến 2 km. Từ năm 1998, chánh phủ đã thi hành chánh sách Cũng cố điền địa –Lland consolidation, tìm cách Đôn điền,Đổi thửa- Plot Exchange, đặc biệt ở Bắc Việt, điều kiện tiên quyết tăng gia năng xuất lúa, hoa màu, cây trồng trọt nông trang gia đình ( rất khó lòng cải thiện hệ thống tưới tiêu, đê điều suy thóai, nếu không cũng cố điền địa manh mún quá độ như vậy !) . Sau khi thử nghiệm cũng cố nông trang gia đình thành công năm 2009 ở xã Mộ Đạo, theo Sở Địa Chánh - Cadastre , mỗi gia đình chỉ còn 1-3 mảnh đất mà thôi. Mảnh đất nhỏ nhất diện tích 720m2, lớn nhất đạt 7200m2 .Nhờ vậy mới thiết lập được một hệ thống tưới tiêu mới, xây dựng đường xá và nhiều tiện nghi hạ tầng khác trong xã, để cho canh tác dễ dàng hơn và tăng năng xuất, sản xuất( chiếu theo báo cáo củaViện Nghiên cứu Xã hội, The Hague , Hòa Lan năm 2010 ). Thế nhưng còn nhiều lý do khiến cho công cuộc củng cố điền địa Bắc Ninh cũng như ở nhiều tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng tiến hành chậm rải , tỉ như thiếu chỉ dẫn chi tiết thực hiện cho cấp tỉnh, khung cảnh luật pháp chính sách mơ hồ, nhập nhằng – an ninh sở hửu chủ điền thổ thiếu thông tin, nhất là khi phương thức chánh phủ cho thuê đất ruộng 20 năm từ năm 1993 sắp hết hạn vào năm 2013, thiếu tài trợ, thiếu trách nhiệm giải thích trong trắng …
Vì vậy, có lẽ không nên cố sức khuyến khích làm thêm một vụ lúa nữa ( chỉ số 3 vụ , nhưng nay Bắc Ninh mới dạt chỉ số 2.5 vụ như kể trên) ; khi nước nhà hay tỉnh nhà đã cải thiện sản xuất nhiều ruộng hai vụ, tỉnh đã trên mức bình quân thóc cần thiết, quốc gia đã xuất khẩu nhiều gạo . Năng xuất lúa ( thóc ) trung bình Bắc Ninh cả năm1995 chỉ đến 3.4 tấn /ha, năm 2002 – 2003 đã tăng đến 5-5 -5.6 t/ha nhờ lúa lai đời F1, phổ thông giữa thập niên 1990 ở đồng bằng sông Hồng và ở các tỉnh miền Bắc Trung Việt ( trong khi ở miền Nam và Duyên Hải Nam Trung Việt là các giống Thần Nông IR …). Có lẽ về lúa gạo, Bắc Ninh nên chú trọng khuếch trương các giống nếp cao năng, thơm nồng ( như Hòang Cầm đã nhắc đến từ thập niên 194-50 và Bắc Ninh cũng nổi tiếng về lễ hội thi thổi xôi), trồng các giống lai japonica thơm cao năng hay cả những giống lai indica kiểu gạo Jasmine, có máu Basmati 370 ( lòai lúa thơm ngát nhất thế giới ngay từ cây lúa đang sinh trưỏng ) Hồi Quốc, Ân Độ. Cần chuyễn hướng qua những lòai cây trồng khác cho nhiều lợi tức hơn, nếu những ruộng lúa vài vùng huyện -tỉnh nhà vẫn còn tiếp tục cho năng xuất kém cõi, dưới 6-7 tấn/ vụ là năng xuất các tỉnh sông Hồng khác đã đạt từ năm 2002 ( Nam Định, Thái Bình ) ; dù đã áp dụng các cải tiến như Lề lối Canh nông Tốt- GAP ,Good Agricutural Practices “ ba tiến ba thóai” ( ? ), Hội nhập Xử lý Bảo vệ Mùa màng – IP M, Integrated Protection Management , Hội nhập Xử lý Hoa màu- ICM, Integrated Crop Management… Nhấn mạnh chuyễn hướng qua hoa cắt cành, chậu kiểng, rau đậu … thích hợp tỉnh nhà, thường có thể cho lợi tức 10 – 15 lần hơn lúa hay nhiều lòai rau đậu lợi tức 6-7 lần hơn .
Ngay cả có khi cần thay các vụ ngô ( bắp ), vụ ngô đông làm thực phẩm gia súc mà năng xuất chỉ đến 2- 3t/ha năm 2002 và 4.5 t/ha năm 2010; trong khi nước nhà nay đã trồng và sản xuất hột giống ngô lai ( 90 % tổng số ngô trồng ) tiềm năng năng xuất 9-10 tấn/ha ( các gíống lai LVN 10 , LVN 4 , LVN 9 , LVN 99 v.v…). Chú trọng hơn đến các giống ngô ăn tươi kiểu rau cải – vegetable corn , vegetable maize ( bắp nếp , bắp ngọt, bắp bê bi – baby corn) , cho đến khi nào năng xuất, giá thành bắp tỉnh nhà sản xuất cạnh tranh được bắp làm thực phẩm của Thái Lan, bớt nhập khẩu và xuất khẩu được sang Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc ước lượng có thể lên đến 40 triệu tấn ngô – bắp các năm 2020 – 2030.
Khoai tây vụ đông tỉnh nhà cũng đã có 4 giống tốt ( KT 2, KT3 , VC 38-6 , P3) và hai giống lai Hồng Hà 2 , Hồng Hà 7 … ngắn ngày ( 90 ngày ) hay các giống mới hơn nữa, năng xuất 25 – 30 tấn/ ha, thay đại trà các giống xưa cũ nay chỉ đạt 11- 12 t/ ha trung bình Cho nên khoai tây cũng là một vụ đông đáng lưu ý thêm, để xuất khẩu sang Trung Quốc , nay xuất khẩu đã vuợt trên 60 % tổng lượng xuất khẩu khoai tây cả nước. Trên những lọai đất nhẹ, không đủ nước tưới tiêu hay khó lòng trồng lúa hay còn bỏ không ( nhưng cố tránh cho khách thương Tàu, Trung Quốc thuê mướn đất trồng khoai lang như xảy ra gần đây ở Quảng Trị, vài tỉnh miền Nam hay Tây Nguyên ? ), có lẽ cần cố gắng cải tiến thêm năng xuất khoai lang, hiện chỉ mới là 11- 12 t/ha, thua kém trung bình thế giới là 16- 17 t/ ha, tuy rằng Việt Nam đã có vài giống phẩm giá cao như KL1, KL 5 năng xuất 20- 25 tấn/ha, và một số giống khoai lang làm rau – vegetable sweet potatoes cao năng. Đặc biệt du nhập thí nghiệm các giống khoai lang tía Nhât cao năng cao phẩm đã thích hợp khí hậu Tây Nguyên, cao năng hơn nữa khỏang 45- 60 tẩn/ha, một nông phẩm miền Nam đã bắt đầu xuất khẩu sang Nhật .
3 lòai họ đậu nên khuếch trương thêm ở Băc Ninh là đậu xanh – mungbean thị trường Nhật cũng đang đòi hỏi mua thêm, đậu phụng – lạc và đậu nành – đổ tương. Nước nhà đã tuyễn chọn được các giống đậu phụng lai trên 3 tấn/ha phổ thông ở Nam Định, cũng như các giống đậu nành ngắn ngày thời gian tăng trưởng chỉ 73 ngày , cao năng 2-3 tấn/ha, hầu chấm dứt hay gia giảm nhập khẩu đậu nành làm thực phẩm gia súc và làm tàu hủ - tofu. Việt Nam chỉ mới tiêu thụ 1kg/ đầu người tofu, so với 12kg/ đầu người trung bình trên thế giới và mức tiêu thụ tofu trong nước lại có khuynh hướng gia tăng. Bắc Ninh có thể trồng thêm nhiều diện tích đậu phụng, đổ tương hơn là con số khỏang 2000 ha hiện nay cho mỗi lòai.
Trong số rau đậu tiêu thụ gia tăng thêm ở trong nước nhờ đô thị hóa hay yêu cầu xuất khẩu vào mùa đông ( từ tháng chạp đến tháng 3 mỗi năm ), không trồng hay trồng nhà kiếng giá thành cao quá ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông , Nhật.. , Bắc Ninh nên chú trọng thêm đến dưa chuột, cà chua, cà rốt, họ đậu ( cô ve, đậu đủa ,đậu rằn… ), cải bắp, hành tây, bắp bê bi… ngòai su hào, cà chua, cải bắp … năng xuất địa phương còn quá thấp, phẩm giá còn kém cõi và chưa áp dụng được nhiều phương pháp sạch -an tòan vài quốc gia đã và đang phổ thông ở Việt Nam ( Đan Mạch , Bỉ … ) . Khuyến nông mau lẹ hơn các giống cà chua lai cao năng như FM 29 , FM 20 , VT3; các giống dưa chuột CV5 , CV 11; các giống ớt cay HB9, HB 14.
Về ngành hoa, Bắc Ninh cần cải thiện, phổ biến thêm các giống hoa hồng – rose, cúc – chrysanthemu , cúc đồng tiền -gerbers, hoa lan – orchids, lay dơn – gladiolies, huệ hương tuberose, cẩm chướng – carnation. Khi nước nhà đang cố gắng gia tăng mức tiêu thu hoa tươi, chỉ mới là 1 USD mỗi đầu người VN so với trung bình 16 USD mỗi đầu người ở Hoa Kỳ, Đức, Nhật, Hòa Lan, Ý. Hai lảnh vực khác Bắc Ninh còn chậm tiến là trồng cỏ nuôi bò sửa ( hiện các giống cỏ họ đậu nhiệt đới và các giống cỏ hòa bản nuôi bò ở Việt Nam, năng xuất còn quá kém so với các lọai này trồng trên thế giới ), dù rằng tương lai Bắc Ninh có thể hình thành một khâu vòng đai trắng ( sửa , phó mát, da ua – yogourt … ) cho vùng lớn “Đại Hà Nội” và nuôi trồng thủy sản , vì Bắc Ninh còn nhiều đất ở vùng chiêm trũng, ngập nước quanh năm .
( Irvine , Nam Ca Li ngày 17 tháng 12 năm 2011 )