Lên mạng ngày 18/9/2010
Nuôi cá công nghệ di truyền
Có lẽ Việt Nam không nên “bảo hoàng hơn vua“, điều hòa qúa thiên về môi sinh làm trì hoãn đột khởi, sáng kiến… :
Tiến mạnh hơn nữa thực hiện khảo cứu, nuôi cá công nghệ di truyền
G S Tôn Thất Trình
|
Công nghệ di truyền Nông Nghiệp |
Hai mươi năm qua, kỹ thuật công nghệ di truyền - genetic engineering technology cận đại để sản xuất dược phẩm và cây trồng mới đã thành công mỹ mãn trên phương diện khoa học, nhân sinh và tài chánh. Thế nhưng ứng dụng kỹ thuật này vào động vật làm thực phẩm đã lẽo đẻo theo sau thua kém xa, dù sự kiện cho thấy là protêin động vật đắt tiền và thế giới mỗi ngày mỗi đòi hỏi nhiều hơn. Lý do sự tụt hậu không phải vì khó khăn kỹ thuật.
Hàng ngàn động vật có gen ( es ) hủy bỏ hay thêm vào , đã được công nghệ hóa có mục đích khoa học . Bảng kê mục lục các dòng có được trông tựa một cuốn sổ điện thoại của một thị trấn nhỏ , và các động vật này đã góp phần tính không xuể , đến hiểu biết các chức năng gen loài vật có vú về y tế và bệnh tật. Thật sự, trở ngại bắt nguồn trên chánh sách công cộng, đặc biệt trên luật lệ điều hòa - regulations của chánh phủ.
Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ - the Food and Drug Administration , FDA ở trong ca, trường hợp này. FDA sẽ triệu tập những buổi họp các ngày 19-21 tháng 9 năm 2010 tới, để bàn cải có thể chấp nhận hay không cho thị trường hóa một cá hồi - salmon , saumon công nghệ di truyền - GE tăng trưởng và mau trưởng thành hơn là đàn cá hồi không sửa đổi di truyền. Những buổi họp này là đỉnh thành quả của nhiều năm do dự và lý luận lờ mờ . Sau hơn 2 thập niên bàn luận, năm ngoái Trung Tâm Thú Y- Center for Veterinary Medecine ( ở Việt Nam theo truyền thống Pháp Eaux et Forêts ngành ngư nghiệp thuộc ban Lâm không thuộc ban Thú Y ) của FDA, đã lựa chọn là mọi động vật công nghệ di truyền phải tuân thủ các thể lệ chấp thuận và điều hòa tương tự dược phẩm, trước khi bán ra thị trường, tỉ như các thuốc làm giảm đau nhức và chống rận, bọ chét - anti-flea dùng để trị các bệnh động vật. Lý do căn bản là một “ xây dựng - construct “ công nghệ di truyền hiện diện trên một động vật GE và có ý định ảnh hưởng đến cấu tạo hay chức năng động vật thõa mãn định nghĩa một thuốc, dược phẩm động vật .” Những giải thích này thuận tiện bỏ quên khoa học, các tiền lệ của chính FDA và các lựa chọn điều hòa khác , tốt đẹp hơn.
Vậy chớ loại động vật nào chúng ta đang đề cập tới ? . Con cá sẽ thảo luận ở các buổi họp FDA là cá hồi Đại Tây Dương- Atlantic salmon, chứa một gen hormon tăng trưởng - growth hormone, cá hồi Chinook , mở ra suốt năm, thay vì chỉ vào các tháng ấm áp , như trong thiên nhiên. Thời gian này là phân nữa thời gian cá hồi tăng trưởng để có kích thước thương mãi. Thay đổi di truyền không có sai biệt nào dò ra được ở bề ngoài, mùi vị hay giá trị dinh dưỡng . Nó chỉ giúp cho cá tăng trưởng mau lẹ hơn, một ưu điểm to lớn cho ai nuôi cá này và cho người tiêu thụ thêm khả năng mua nhiều cá hơn và giá rẽ hơn. Ngay cả phân tích triệt để (quá đáng , không cần thiết ) của chính cơ quan FDA kết luận là cá hồi GE không có gì khác biệt dò ra được và “ cá cũng làm thực phẩm an toàn như thể cá hồi Đại Tây Dương qui ước. “ Nhưng vì lẽ cá thị trường hóa sẽ không thụ tinh - sterile và nuôi trong lục địa, hầu như không có thể xảy ra một thứ “ ô nhiễm di truyền” của tập hợp gen - gene pool hay các ảnh hưởng môi sinh nào khác. Tuy nhiên, con cá hồi khổ sở này đã bị lơ là bỏ quên vì luật lệ điều hòa suốt 10 năm qua.
|
Cá Hồi với gen tăng trưởng lớn hơn cá hồi tự nhiên |
Trong số những ứng dụng khác của kỹ thuật đang ở nhiều giai đoạn khảo cứu và phát triển , một ứng dụng đã xuất hiện trên thị trường nhiều năm nay ” một con cá kiểng tên gọi là cá huỳnh quang - Glofish , một cá kiểng sọc rằn - zebra fish được sửa đổi di truyền làm cá phát quang, rọi sáng trong đêm tối. ( FDA đã không điều hòa Glofish nêu lên là nó không đem lại tí nguy hiểm nào cho y tế công cọng . “Vì chưng bể trưng bày cá - aquarium không dùng vào các mục đích thực phẩm , cho nên các cá Glofish không đe dọa gì dây chuyền thực phẩm cả thảy. Không có chứng cớ nào là các cá sọc rằn sửa đổi di truyền đe dọa môi sinh nhiều hơn là các cá sọc rằn không sửa đổi di truyền đã bán ra rộng rải ở Hoa Kỳ từ lâu. “ Miller đồng ý biện cứ tương tự cho cá hồi mau lớn , sửa đổi di truyền ). Các động vật khác đang chờ FDA chấp thuận, gồm có các gia súc cơ bắp ít mỡ hơn và sử dụng cải thiện phốt pho kiêng cử - dietary phosphorous hầu giảm thiểu ảnh hưởng môi sinh của phân chuồng - manure.
|
Cá Huỳnh Quang |
|
Cá sọc rằn |
Cho đến khi tuyên bố chánh sách năm ngoái, FDA không còn điều hòa những dòng mới động vật nuôi ở nông trại hay theo sự việc này là các động vật dùng theo danh từ là “ có mục đích y khoa - medical purposes “. Chẳng hạn, FDA không điều hòa các chó Đức chăn cừu hay các cho săn, nhặt thú bị bắn, tuyễn chọn màu vàng kim - golden retrievers bred , hầu tăng cường tính trạng của chúng làm mắt chúng thấy rỏ hơn hay các chó đồng hành . Tương tự như thế , FDA cũng không khẳng định quyền hạn mình trên các động vật công nghệ di truyền tạo ra cho các mục đích khảo cứu , gồm luôn cả hàng trăm dòng chuột, dòng gặm nhắm.
Yêu cầu chấp thuận trước khi bán ra thị trường, rất tốn kém, chỉ áp dụng khi động vật đã được sửa đổi di truyền với kỷ thuật lành nghề tái phối hợp DNA- state -of the -art recombinant DNA mệnh danh là “ cột gen - gene splicing “ . Cho nên, dù vẫn dùng làm thực phẩm , nếu cá hồi Đại Tây Dương mau lớn mô tả trên là thành quả của thụ tinh nhân tạo - artificial insemination thay vì công nghệ sửa đổi di truyền, nó sẽ khỏi cần FDA định giá chấp thuận trước. Điều này cũng đúng cho các động vật thực phẩm từ lâu đã được sản xuất với các phương thức sửa đổi di truyền ít chính xác , ít tiên liệu được . Tỉ như việc làm ra beefalo , một giống lai giữa bò cái và trâu mỹ - buffalo chưa bao giờ bị FDA điều hòa cả. Nói một cách khác, khởi điểm cho việc điều hòa FDA tốn kém, không phải là những tính trạng liên can đến hiểm nguy của một động vật , mà là việc sử dụng môtt vài loại kỷ thuật nào đó, mà ở đây lại là kỷ thuật rất chính xác và tiên liệu được. Đúng là vô nghĩa lý quá chừng!
Du nhập của một gen ảnh hưởng vài đặc tính không giống việc quản trị một dược phẩm . Một mô hình trái ngược là phương cách do cục điều hòa thực phẩm của cơ quan FDA , là Trung Tâm An Toàn Thực phẩm và Ứng dụng Dinh dưỡng- Center for Food Safety and Appllied Nutrition, không duyệt xét mọi sản phẩm mới từng trường hợp một nhưng giới hạn vào các sản phẩm có đặc tinh gợi ý rằng chúng đặt ra một nguy hiểm không bỏ qua được. Phương cách này hoạt động tốt đẹp nhiều năm qua .
Phương các hiện hửu về thực phẩm của FDA đáng lý phải áp dụng cho các động vật công nghệ sửa đổi di truyền. Nhưng lạ thay, các nhà điều hòa lại lựa chọn phương thức nặng nề vất vả và căm ghét hiểm nguy nhất. Thành quả là tòan thể một lảnh vực doanh nghiệp đầy sáng kiến đã bị trầm mình ở vũng bùn, vì một chánh sách làm tắng phí tổn khảo cứu và phát triễn , kiềm hãm sáng kiến và tước đoạt khỏi tay người tiêu thụ những sản phẩm đề cao sức khỏe và rẽ tiền hơn . Không lạ lùng chi, khi thấy rất ít công ty muốn can đảm xông vô rừng dày đầy điều hòa này.
Tại sao FDA lại lựa chọn một lề lối điều hòa lố bịch như thế ? Cựu thủ trưởng FDA Frank Young thường châm biếm là bò cái rống , chó sủa , và nhà điều hòa làm điều hòa. Ông có thể thêm một nhận xét khác là các nhà điều hòa khi họ thú nhận là đã điều hòa quá đáng và sửa sai , bước lầm về chánh sách thì họ sẽ giống loại “ heo biết bay” !
( chiếu theo Henry I. Miller, một bác sĩ y khoa và nhà sinh học phân tử thành viên của Cơ quan Hoover và Viện Doanh nghiệp Cạnh Tranh - Competitive Enterprise Institute. Ông cũng là giám đốc thiết lập Cục Kỷ thuật sinh học thuộc FDA và là đồng tác giả sách “ Huyền thoại Thực Phẩm Ma Quỉ, Thực phẩm Công nghê Di truyền - Frankenfood Myth “