Lên mạng ngày 2/10/2011
Tiến bộ khoa học: kỷ thuật điều trị AIDS, vaccines chống ung thư, nghiện ngập, tiểu đường, mập phì - sửa chửa ổ gà, xoi mòn ống dẫn khí, bụi phóng xạ ?
G S Tôn Thất Trình
Các nhà khảo cứu đã mất 30 năm cố sức tìm giải đáp cho câu đố vi trùng HIV ( bệnh AIDS ) ,một nổ lực mà chuyên gia bệnh này David Margolis, gọi là “ Cũng khó khăn không kém sáng tạo ra một cuộc chạy đua biến dạng du hành đến các vì sao trên hòan vũ”. Cách điều trị tổng thể AIDS chưa hòan tất, nhưng các nhà khảo cứu đã gần kề và sự lùng kiếm đã dựng đứng lên hiểu biết của chúng ta về hệ thống miễn nhiễm và đặt nền tảng cho giải pháp điều trị hàng trăm bệnh khác. Tiến trình này lập đi lập lại: Điều trị ít khi xảy ra với một chớp sáng lỗi lạc và tiếng la “ tìm ra rồi – eureka”, nhưng cách mở cuốn khuôn phép, châm lữa cho mộng mơ và công trình khoa học. Theo cách này, nguồn cung cấp vấn đề vô tận của thế giới trở thành một tài nguyên đáng giá. Danh sách các bệnh tật chín mùi để điều trị tốt hơn, trải dài xa hơn AIDS, xa hơn cả y khoa nữa đó : chỉ kể ra đây vài nạn như kẹt xe, bụi phóng xạ, các sát nhân chưa giải quyết. Mọi chúng ta đều có vài người hay vài điều gì muốn điều trị sửa chửa và các viện đại học đồ sộ không là nơi duy nhất thúc đẩy chúng ta tấn công. Ngày nay, trong phong trào “tự mình làm - do it yourself hay DIY, TML” tìm kiếm giải pháp ở gara hay ở các la bô cộng đồng. Điều duy nhất cần có thực sự để giải quyết vấn đề là kiên tâm. Theo Robert Sabin, một nhà DIYers- TML, khi một nhà khoa học có một ý kiến nào đó trong đầu óc, họ không ngừng suy tư, mãi cho đến khi nó được thử nghiệm . Các nhà khoa học bị ý kiến của mình nhập ma.
1- Điều trị bệnh muỗi cắn
Muỗi căn bản là kim chích biết bay, lây nhiễm 700 triệu người mỗi năm. Riêng sốt rét đã giết chết 800 000. Kể từ thập niên 1940, phòng ngừa dẫn đạo chống muỗi là thuốc xua đuổi- repellent DEET, nhưng nếu bạn quên xịt thuốc trên người bạn vài giờ một lần, bạn có thể bị muỗi cắn nhóp nhép. Nhà côn trùng học Anandasankar Ray và đồng nghiệp , tại viện đại học UC Riverside- Nam Ca Li, nhắm làm tốt hơn với cách xịt giết muỗi thay vì xịt xua đuổi muổi đến cắn trên người. Họ đang phát triễn ra một lọat hóa chất làm đứt quảng cảm giác của muỗi đánh hơi mùi hơi, có hiệu quả làm muỗi mù mắt đi, không nhận ra người nữa.
Ray khởi sự bằng 50 hợp chất được xem là có khả năng làm rối lọan máy dò - sensors khứu giác- olfactory muỗi ,để dò tìm carbon dixoxide – CO2 - thán khí, dấu báo hiệu một bửa ăn hút máu của một sinh vật đang thở, đang sống. Rồi ông lật bàn, đấm mạnh muổi, nhét những điện cực- electrodes bé tí xíu vào các máy dò của muỗi. Một hóa chất 2-butanone , hành động như một thể bắt chước carbon dioxide, có cơ khai thác lừa các kẻ hút máu này . Một chất khác, butanal , ngăn cản các máy dò carbon dioxide họat động , trong khi chất 2.3 – butanedione hành động như thể một kẻ làm mù ( mắt ), tràn ngập các máy dò của muỗi bằng tín hiệu, khiến chúng thành vô dụng .
Từ đó, Ray góp sức với một nhóm đầu tư thiết lập La bô Khứu giác – Olfactor Labs , tọa lạc tại Nam Ca Li- Hoa Kỳ, phát triễn ra các chất xua đuổi muổi kiểu thương mãi. Ông tiên đóan sẽ làm ra các bẩy mùi hơi – odor traps có thể đặt quanh các sân gôn ( golf ) hay khách sạn, hầu bắt chước carbon dioxide và đẩy muổi xa ra khỏi các vùng đông dân cư. . Ray cũng đang thám hiểm một tác nhân che đậy vùng. Thay vì phun xịt DEET trên da người, một đám mây mùi hơi với các hóa chất dính kết có thể ngăn không cho muổi tới gần bằng một “ áo khóat tàng hình – invisible cloak” làm cho không còn dò ra carbon dioxide được nữa. Những áo khóat này sẽ có giá trị cao lớn quanh các gia cư vùng sốt rét trên thế giới. Vậy chớ khi nào chúng ta đào huyệt chôn cất DEET đây ? Ray cho biết là phun xịt các áo khoát và các bẩy mùi hơi sẽ bán ra 5 năm tới.
2- Điều trị bụi phóng xạ.
Có lẽ chúng ta nên lưu tâm đến điều trị bụi phóng xạ -radioactive fall out, vì chúng ta sắp làm các nhà máy điện nguyên tử. Chở mang vất đi một số lượng lớn phế thải từ vùng tai họa như ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi là đã đủ khó nhọc rồi. Nhưng lấy đi những bụi phóng xạ bám chặt vào tường, thấm vào các kẽ nứt và bao phủ xe cộ cứu vớt , thảy đều là một vấn đề bực mình hơn.
Bạn có thể rữa sạch ô nhiễm với xà bông và nước ( lề lối truyền thống ) , nhưng như vậy sẽ tào ra những bồn chứa kích thước đáng kể của nước chảy tràn phóng xạ. Lọai nước này phải được hứng bẩy,chửa trị rồi đem tồn trử đi hàng thế kỷ.
CBI Polymers, một hảng chế tạo sản phẩm khử nhiễm, tại bang Hạ uy Di, Hoa Kỳ, đã phát triễn ra một lựa chọn khác tên gọi là DeconGel , có thể dùng phun xịt, trát bay hay sơn phết trên mọi mặt phẳng . Chất lỏng xanh dương ( chứa 95% nước và 5% một hóa chất hảng giữ kín ) này chảy rĩ ra những khí khổng -pores nhỏ chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi và nối kết với những vật liệu lỏng lẻo . Khi cứng lại, nó co rúm nhỏ mất 20 % , hút các hạt tử phóng xạ nhỏ xíu và và bao vỏ chúng vào trong các nếp xếp của nó.
Theo Shaun McCabe, chủ tịch các Hệ thống Á Châu – Thái Bình Dương cho CBI Polymers, các gel của hảng co cơ chiếm lại kiểm sóat vật liệu phóng xạ và sản xuất 90% ít phế thải hơn nước. Hảng mới tặng 100 xô ( pail, seau ) 20 lít chất làm sạch của hảng cho những cố gắng làm sạch Fukushima và hy vọng sẽ bán hàng trăm xô nữa ở tại đây. Ông nói: bạn có thể ép đặc lại phế thải và thảy vào một nơi đổ rác, đốt cháy và giảm thể tích thành tro hay hòa tan gel trong nước và chửa trị nước ô nhiễm.
Các nhà khoa học họat động cho công ty bà con CBI là Skai Ventures, thọat tiên để ý tới một sản phẩm hòan tòan khác biệt, khi họ khám phá ra chất gel dính này. Trong khi tìm kiếm cách cấy gíác mạc- corneal implants, một cán sự labô vô ý làm rớt một hợp chất thí nghiệm xuống sàn ; khi chất khô đi, các nhân viên lột ra và khám phà là sàn sạch hơn bao giờ hết. Ngạc nhiên về tính chất làm sạch của hợp chất, họ tiếp tục khảo cứu .
Từ đó, CBI đã tăng cường hợp chất với các chất kết kìm – chelantes, những chất phụ thêm dính chặt vào các bụi chì, các đồng vị phóng xạ và những vật liệu hiểm nguy khác. Hảng nay đã bán ra sản phẩm dùng cho mọi thứ, từ làm sạch nơi xảy ra tội ác đến làm sạch các la bô “ngăn nắp- khuôn phép” và các vị trí Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ .
3- Những tia súng chửa trị ổ gà – potholes.
Vào mùa hè khô hạn, các tóan làm đường bộ có thể sửa chửa vĩnh viễn những ổ gà với “ pha trộn nóng bỏng – hot mix” , một kỷ thuật mà dân công chánh Việt Nam mới biết được khi hảng thầu Mỹ RMK xây dựng mở rộng, cận đại thêm các xa lộ Việt Nam thập niên 1960 và là pha trộn căn bản dầu hắc ( nhựa đường )- asphalt làm kết dính tốt cho các ổ gà. Nhưng vào mùa đông ở Hoa Kỳ, khi đất đai lạnh ngắt và nhiều nhà máy pha trộn dầu hắn nóng bỏng đóng cửa, các tóan phải dựa vào các “miếng chắp vá lạnh – cold patches” , thường bị tan vụn vào mùa xuân tới, khiến cho đường xá thủng đầy lỗ, rất nguy hiểm. Kirk Kjellberg, bán thiết bị cho hảng Microwave Utilities ở Monticello, bang Minnesota - Hoa Kỳ nói: “ Thật không tưởng tượng nổi tai hại ổ gà cho xe ô tô.”
Giải pháp về mùa đông của hảng này là làm tan đông giá ở lỗ bằng một đơn vị vi ba – microwave công nghệ 100 000 watt, đun sôi mọi ẩm độ và thêm dầu hắc. Dầu hắc qui ước cũng tốt rồi, nhưng Kjellberg đã họat động ở Viện Khảo cứu Tài Nguyên Thiên nhiên tại thành phố Duluth làm ra một pha trộn đặc thù vi ba từ các ván lợp tái sinh- recycle shingles và các cặn bả taconit – taconite tailings , đặc biệt khi kỷ thuật lọc dầu đã làm giảm bớt cung cấp dầu hắc. Bước tiếp là làm đầy trung tâm lỗ một lần nữa, bằng cách đun nóng pha trộn lên khỏang 300 độ F, làm lưu hóa – vulcanize dầu hắc để tạo thành một dính kết khít khao. Cách làm tiến trình này chỉ mất ít hơn 10 phút .
Những thử nghiệm ở ngòai trời đã thành công ở Minnesota, đã chứng minh ý niệm . Kjellberg còn đang do dự không biết là dịch bản thương mãi hóa sẽ là gì, nhưng ông dự kiến một xe cộ sẽ dàn trải vi ba , phun tia dầu hắc , và cán dầu hắc phẳng ra. Theo ông ước tính , kỷ thuật cần vài năm, pha trộng mới đem xài được ở đường xá .
4- Sửa chửa các ống dẫn khí dầu bị rĩ, thối rữa bằng các rô bốt máy dò đo lường kiểm sóat trong ống- pigbots.
Chúng ta sẽ nhiều ống dẫn dầu khí, nêu khaithác hoàn tòan các lưu vực chứa dầu , khí Biển Đông – Biển Tây ở nước ta , nhất là cả hai lưu vực Hòang Sa và Trường Sa cũng như những hải phận đặc quyền kinh tế, thềm lục địa … bị Trung Quốc cưởng chiếm hay đe dọa mới – cũ, và biết đâu nay mai sẽ có ống dẫn dầu khí từ biển Adaman Ấn độ Dương qua Biển Đông ( cảng Đà Nẳng, Qui Nhơn, Văn Phong , Cam Ranh , Cà Ná … ) tránh tàu chở dầu khí qua eo biển Penang hay Singapore ngàn xưa xa lắc xa lơ . Vấn đề sửa chửa ống dẫn khí dầu – gas pipelines quan trọng hiện nay cho Hoa Kỳ hơn : vì chưng hơn phân nữa ống khí dầu thiên nnhiên ở Hoa Kỳ - dài trên 160 000km – đã quá cũ , thiết lập trên 40 năm rồi; vài ống đã trên trăm tuổi. Các ống thép hay gang bị mòn rĩ là những bom nổ chậm; một sự kiện đã lên trang nhất báo chí Mỹ năm 2010, khi một ống dẫn khí ở thị trấn San Bruno nổ tan, giết chết 8 người; khiến cho bà thượng Nghị sĩ Dianne Feinsrein bang Ca Li phải đề nghị một đạo luật cũng cố giám sát ống dẫn và tăng tiền phạt cho bất cứ một vi phạm an tòan nào. Rò rĩ ống dẫn cũng giải tỏa khí methane, một khí nhà kiếng uy vũ vào khí quyễn.
Giải pháp rỏ rệt nhất là thay các ống hư hại bằng các ống plastic bền hơn, nhưng sự nâng cấp này sẽ tốn hàng trăm tỉ đô la, không phải là một lựa chọn thích nghi cho nền kinh tế tài chánh Hoa Kỳ hiện nay. Giải pháp rỏ rệt thứ hai là đơn giản sửa chửa các ống , nhưng công tác này cũng gặp nhiều thách thức. Đa số các ống dẫn khí dầu các thanh tra không đến được, vì các ống chôn sâu dưới đất ít nhất là từ 60cm đến 120 cm dưới mặt đất.
Đó là lý do tại sao các công ty tiện nghi -utility companies, lại càng ngày càng xem xét tới PIGs , rút gọn từ pipelines inspection gauges - máy dò đo lường thanh tra các ống dẫn, những robot bò trườn xuyên qua ống khám xét xem có xoi mòn, mối hàn yếu kém, nứt kẻ hay những dấu hiệu hư hại khác. Vài PIGs sớm, “ thông minh” phát triễn vào thập niên 1960, tiền phong sử dụng kỷ thuật luồng chảy rò rĩ từ tính – magnetic flux leakage technology hầu dò ra những khíếm khuyết ở ống. Nói đơn giản hơn, các robot dùng những nam châm hết sức mạnh mẽ làm ra từ tính quanh các vách ống dẫn. Nơi nào robot đụng nhằm mâu thuẩn tại mặt bằng, từ trường lệch đi chút ít và một máy dò-detector đo lường biến thiên để ước lượng là kim lọai đã bị xoi mòn mất bao nhiêu.
Ngày nay PIGs gần giống như Lưởi dao Quân đội Thụy Sĩ- Swiss Army Knives ngầm dưới đất, sử dụng một lọat rộng rải kỷ thuật thanh tra mới mẽ. PIGs siêu âm đo là bao lâu những làn sóng siêu âm mới dội lui từ các vách ống, hầu đo bề dày của vách Pigs tia - X phân tán lại, ráp những hình ảnh trong ống dẫn bên trong ống dẫn căn cứ trên phóng xạ phản chiếu, có thể dò tìm ra những kẻ nứt bé tí xíu trước khi phát triễn thành những vết thương lớn hơn. Những PIGs điều khiển từ xa còn có thể thực hiện những mối hàn bên trong hay trát một lớp epoxy bảo vệ những điểm bị xoi mòn. Nhà rôbôt học Karl Edminster của hảng Electromechanica, chuyên môn họa kiểu PIGs , đã tạo ra những kiểu có thể du hành trong những ống khó khăn nhất. Chẳng hạn, những ống bẻ cong 90 độ hay chôn sâu duới đường đông giá, nhiệt độ có thể rơi xuống dưới -20 độ Farenheit.
Nhưng tốt đẹp nhất có lẽ là Explorer II nặng 30 kg, đồ gá ( đồ lắp phụ ) cuối cùng điều trị ống dẫn. Do Gagen Schempf, nhà rôbôt học Carnegie Mellon phát triễn có đặc điểm là một máy chụp hình mắt cá – fish eye điều khiển từ xa giúp cho các nhà họat động trên mặt đất nhìn thấy máy đang làm gì, các motor bộ truyền động – drivetrain giúp các nhà họat động kiểm sóat hướng PIGs đi, chưa hề thấy ( đa số PIGs hiện hửu vẫn còn di chuyễn thụ động theo dòng khí dầu trôi chảy) và một vòng xoắn ruột gà điện từ nhẹ cân dò ra được những thay đổi những vách ống từ tính hóa, không làm rôbôt mất cân đi, giúp nó thanh tra trên 3 cây số ống một ngày.
Explorer II đã thử nghiệm thành công năm 2009 ở bang Pennsylvania, có thể giúp duy trì các ống dẫn ít tổn phí hơn. Nhờ giúp thêm cho các cơ sở tiện nghi những thông tin cơ bản cần thiết, hầu lựa chọn các sửa chửa kinh tế ( lợi ) nhất, Schempf ước lượng rằng hệ thống ông làm ra có thể bớt phí tổn thanh tra từ 25 đến 50%, tiết kiệm cho ngành công nghệ khí dầu hàng triệu đô la một năm. Schempf nói thêm : nếu ngân sách tiện nghi vẫn như cũ, hệ thống này sẽ giúp thanh tra nhiều ống hơn.
Hoa Kỳ vẫn còn trông cậy vào khí dầu thiên nhiên để làm pha trộn- mix năng lượng - tỉ dụ hảng điện Nam Ca Li – Southern Californian Edison , SCE dùng pha trộn 18 % năng lượng tái sinh được ( khối sinh lượng và phế thải, địa nhiệt , thủy điện nhỏ , mặt trời, gió ), 17% năng lượng than đá, 6% thủy điện lớn, 37 % điện khí dầu, 19% điện hạt nhân, và 13 % năng lượng nguồn không đặc thù - một đòan rôbốt thanh tra thông minh mới nhất sẽ cần được đưa ra tiền tuyến.
5- Chấm dứt AIDS ?
Vấn đề ở bệnh AIDS là các tế bào T cells , những bạch huyết cầu – tế bào máu trắng( lymphocytes ), giải tỏa ra phản ứng miễn nhiễm mạnh mẽ chống lại các mầm bệnh tỉ như virus HIV. Cho ai mắc bệnh AIDS, tế bàoT cực trọng là CD4, thông thường phối hợp thân thể tấn công chống bệnh. Bằng một cách thức sinh học kỳ quái, các tế bào CD4 cuối cùng ra cách ly virus và tiêu diệt chúng. Khỏang 1% dân da trắng Hoa kỳ , nguồn gốc Âu Châu, thiếu hẳn một protein tên là CCR5 ở các tế bào CD4, những tế bào máu trắng giết các xâm lăng chứa virus HIV. CCR5 là một cánh cửa phân tử để cho virus nhập vào . Vì lý do HIV cần có CCR5 để lẽn vào bên trong các tế bào CD4 , ai có tiếp nhận – receptors này dễ bị AIDS phát triễn . Ai không có cánh cửa CCR5, không nhận HIV vào các tế bào CD4 và có một cách kháng cự thiên nhiên chống AIDS. Phép chửa trị bằng gene có thể truyền đạt cách chống kháng này đến người khác.
Một người bình thường phải đếm được từ 500 đến 1500 tế bào CD4 trong một millimét khối máu; ai chỉ có chừng 250 CD4 là có thể đã mắc bệnh AIDS. Rồi Jay Lalezari , giám đốc Quest Cliniacal Research ở San Francisco thử nghiệm một phương pháp mới chửa trị bằng gen có cơ chửa lành bệnh nhân AIDS. Một bệnh nhân AIDS chịu hút hết máu và những tế bào CD4 của bệnh nhân được lọc sạch , đông gía và chuyễn tới một la bô. Nơi đây, xâm chúng được sửa đổi di truyền để đối kháng HIV xâm nhiễm. Bằng cách bỏ đi một chất tiếp nhận ở mặt bằng tế bào CD4, HIV sử dụng để vào bên trong tế bào. La bô làm nhân thêm CD4 và hoàn trả chúng lại cho Lalezari.
Tháng 10 năm 2010, bệnh nhân AIDS nhận một pha truyền chứa 20 tỉ tế bào miễn nhiễm đã được sửa đổi di truyền. Sau vài tuần , bệnh nhân đếm được gấp đôi CD4. . Bệnh viện thử nghiệm bệnh nhân mỗi tháng và mức CD4 đếm được không bao giờ xuống dưới con số 400. Bệnh nhân không còn thỉnh thỏang bị sưng phổi- pneumonia nữa như trước khi pha truyền máu. Cho nên bệnh nhân mong muốn được nhận máu pha truyền lần thứ hai.
Chửa lành hẳn bệnh AIDS chăng ? Xóa bỏ một bệnh lưu hành khắp thế giới có 33 triệu người lớn và 2.5 triệu trẻ em mắc bệnh và thêm 7000 người mỗi ngày ? Trong 30 năm qua , kể từ khi các nhà khoa học xác định HIV là nguyên ngân bệnh AIDS , virus đã tỏ ra là chưa ai chống nổi : virus núp trong các tế bào rất miễn nhiễm có thể giết nó, phản thân- reflexively và đột biến mau lẹ, tồn tại bí mật trong ruột, gan, thận và óc, lật đổ mọi thuốc chủng ngừa –vaccine ( vaccine tốt nhất chỉ bảo vệ chừng 30% ), và bừng dậy gần lúc ngưng thuốc trị. Đã nhiều năm, mọi người e ngại dùng từ ngữ chửa lành – cure bệnh.
Nhưng nay, vài nhà khoa học đã dám dùng từ này mỗi lúc mỗi tin tưỏng hơn lên, phấn chấn bởi những hiểu biết sâu sắc và kỷ thuật mới chống lại một kẻ thù Jay Levy, đồng tác giả khám phá ra HIV, gọi so sánh đó là “ một Con ngựa thành Troie –Trojan Horse sinh học” và Jay Lalezari gọi là “ một khủng bố sinh học tế bào” trước hết giết chết người đáp ứng đầu tiên” . Chiết hết mọi tiên tiến từ phép trị liệu bằng gen đến các tế bào gốc, các nhà khảo cứu phóng ra những đòn đánh trả mạnh mẽ chống lại virus . Các Viện Y tế Hoa Kỳ- NI sẽ đầu tư 72 triệu đô la Mỹ trong 5 năm tới, hổ trợ 3 cố gắng đa viện mục đích tìm cho ra phương pháp chửa lành AIDS. Một hội Quốc tế Độc lập AIDS cũng đang tụ họp một nhóm chuyên viên họat động, đóng vai mũi nhọn tấn công tìm một chiến lược tòan cầu chửa lành bệnh.
Hy vọng mới mẽ là chúng ta có thể đánh bại HIV càng thêm đặc biệt vì chúng ta đã biết virus ngược – retrovirus này rất phức tạp và xảo trá : gọi là ngược vì lẽ nó đảo ngược tiến trình phân tử mà phân lớn các virus sử dụng. Trong đa số ca – trường hợp virus bắt đầu với DNA như thể là vật liệu di truyền cơ bản, rồi tự làm ra các khâu mẩu- templates RNA của mình. .Các virus ngược, trái lại, khởi đầu bằng RNA rồi làm ra các khâu mẩu DNA, sử dụng một enzyme tên gọi là transcriptase ngược – reversẹ . Rồi thành quả DNA khai thác bộ máy tế bào con người, để tạo ra thêm nhiều sao chép virus . Mục tiêu HIV ưa thích là CD4 tế bào T, điều hòa phối hợp tòan thể hệ thống đáp ứng miễn nhiễm của chúng ta chống trả bệnh. Virus lẽn vào CD4 xuyên qua nhiều tiếp nhận hay cánh cửa phân tử- molecular doorway ở mặt ngòai tế bào, gồm luôn cả một tế bào khẩn thiết là CCR5. Rồi nó cướp đọat nguồn cung cấp transcriptase ngược của tế bào. Nếu tế bào CD4 im lặng, HIV cũng nằm nghỉ. Nhưng nếu tế bào CD4 đượcc kích động bất cứ điều gì, từ căng thẳng đến cảm hàn thông thường, thì HIV bên trong cũng trở nên tích cực, tạo ra các khâu mẩu DNA hội nhập cùng hệ gen người trong tế bào CD4.
Thay vì giết chết HIV, như thể nó làm với các virus khác, tế bào CD4 làm ra thêm nhiều sao chép của HIV . Các sao chép này sẽ ra đi, xâm nhập các CD4 khác, mãi mãi vô tận, cho đến khi một thác lũ không trở lui được, giết chóc đã được giải tỏa.
Riêng mình chu trình CD4 không đủ sức giết chết một người , nhưng HIV cũng xâm nhập nhiều tế bào khác, cũng hội nhập vào hệ gen chúng. Virus tiềm tàng mai phục, tuồng như ngũ kỷ nhưng thật sự đang chờ đợi ra hiệu : bất cứ điều gì khuấy động hệ thống miễn nhiễm -căng thẳng khi làm việc, bị ngộ độc thực phẩm hay phiền muộn- đều có thể làm xóc đột ngột cho các chiến sĩ HIV hành động. Vài nhà khoa học nghi ngờ rằng hồ tồn trử tiềm tàng này gây ra viêm – inflammation dài hạn, những ai thường sống với HIV biết rỏ, ngay cả khi họ đang được một cốc ten thuốc chửa điều trị . Sau nhiều năm, các HIV tiềm tàng có thể trút hết mọi sự phá hủy thầm lặng, gây ra cần thiết phải có một phép chữa lành hẳn bệnh ; mức cần thiết càng khẩn thiết thêm theo thời gian trôi chảy.
Những nghiên cứu mới đây đã làm minh bạch các giới hạn của lề lối phối hợp thuốc của bác sĩ David Ho, viện đại học Rockefeller New York năm 1996 , trình bày một cốc ten thuốc chửa trị làm cho không còn dò tìm ravirus trong máu được nữa. Công trình bác sĩ Ho đã biến, qua đêm, AIDS chắc chắn làm chết người, thành một lọai bệnh kinh niên, mãn tính. Rồi các bác sĩ tìm ra bệnh AIDS thầnkinh - neuroAIDS . Ngay cả khi chửa trị , chừng 4- 6- % bệnh nhân lây nhiễm HIV phát triễn những hổn lọan nhẹ ở dây thần kinh . 1- 5 % phát triễn điên lọan – dementia .Nghiên cứu mới gợi ý rằng hội chứng là thành quả cách nào HIV làm hư hỏng tế bào dạng sao – astrocytes là lọai tế bào thông thường nhất ở óc nảo. Ở các bệnh nhân AIDS , khỏang 5 % tế bào dạng sao bị lây nhiễm. Vài nhà kjhoa học tư biện là những tế bào này nhổ ra độc tố cuối cùng giết chết nhưng tế bào dạng sao kế cận không bị lây nhiễm .
Xa hơn nữa, các phép chửa trị bằng thuốc nhắm đặc thù những dòng HIV đương thời, nhưng virus có lẽ sẽ đột biến – mutate, như mọi lọai virus thường làm. Jay Levy , nay là giám đốc La Bô cho Khảo cứu U ung thư và Virus AIDS ở viện đại học UCSF nói : chúng ta không thể tự mãn, Đây là một dịch bệnh tích cực chưa chửa trị được ở các phần khác trên thế giới. Điều này có thể thay đổi và trỏ lui lại ám ảnh chúng ta dưới một thể dạng mới .
Trong công cuộc tìm kiếm gia tốc chửa lành AIDS, các nhà khảo cứu y khoa, đang năng nổ đuổi theo 3 phương pháp . Thứ nhất là phép chửa trị bằng gen, đã nói trên, trong đó các tế bào bệnh nhân được sửa đổi di truyền để trở thành không còn bị HIV làm tổn thương nữa. Tính cách đối kháng thiên nhiên đã xảy ra ở 1% dân dạng cáp ca – Caucasian trên thế giới . Lề lối thứ hai liên quan đến các chất kích động tiềm tàng – latency activators , những phân tử lừa virus ra khỏi nơi ẩn núp ra hẳn ngòai, nơi các tế bào miễn nhiễm của thân thể và các thuốc có mục tiêu đủ khả năng tìm thấy chúng và giết chết. Cuối cùng, các nhà khoa học đang miệt mài nghiên cứu những hệ thống miễn nhiễm của một nhóm người khác thường tên gọi là các kẻ chèn ép thượng lưu - elite suppressors, vẫn lành mạnh khi bị HIV lây nhiễm, và sau vài chục năm kiểm sóat được virus .
Các cố gắng đầu tiên lừa HIV ra khỏi nơi ẩn núp không đem lại kết quả mỹ mãn. Giữa thập niên 1990, các bác sĩ Hòa Lan sử dụng các kháng thể gây viêm – inflammatory antibodies, đốt dậy những hệ thống miễn nhiễm bệnh nhân, hy vọng kích động các tế bào CD4 đang ngũ yên và lấy ra các HIV. Các kháng thể thật sự đã kích động các tế bào CD4 , nhưng lại giết chết mất chúng, giảm bớt vỏ khí tốt nhất của thân thể chóng lại HIV. Nhà vi trùng học Warner Greene đại học UCSF cho biết là cuối cùng ra , chúng ta phải tìm cho được những phân tử kích động virus , nưng không kích động các tế bào T hay các virus khác . Đó là một nhiệm vụ không dễ dàng đâu. Vài phân tử đã tỏ ra đầy hứa hẹn. Chẳng hạn , một enzyme tên gọi là histone deactylase - HDAC. Làm HIV tắt đi và đây là một phần chủ yếu chiến lược của virus để ẩn núp trong các tế bào T để tráng các phòng vệ của thân thể . Năm 2000, nhóm bác sĩ Margolis khảo cứu AIDS t.i viện đại học North Carolina, thị trấn Chapel Hill, khám phá là họ có thể sử dụng các ức chế- inhibitors HDAC - những lọai thuốc đã được chấp thuận ổn định tính khí và ngăn ngừa ngập máu lên cơn – seizures- hầu lật ngược ảnh hưởng và đẩy virus ra ngòai. Ngày nay , Margolis tụ điểm vào một ức chế HDAC mạnh hơn nữa , một lọai thuốc chưa thử nghiệm nhiều tên gọi là vorinosat, hiện đang dùng trị một lọai ung thư hiếm có . Vướng mắc là hòan hảo lọai chửa trị này có thể đòi hỏi một cốc ten thuốc phức tạp, có cơ nguy hiểm . HDAC có thể kích động các viru skhác HIV, đam lại nhiều bệnh khác. Ngòai ra, chúng còn có thể tăng gia hiểm nguy ung thư bằng cách thay đổi cách thức tế bào chuyễn các chỉ thị di truyền từ DNA đến các protein tế bào .
Trò con rối sẽ khép lại khi chúng ta hiểu biết một nhóm bệnh nhân đặc biệt gọi là những kẻ chèn ép thượng lưu - một trong số 300 người trưởng thành duơng tính HIV, hệ thống miễn nhiễm sạc tua bin có khả năng săn lùng và giết HIV. Nhừng kẻ này thiếu tiếp nhận CCR5 đánh bại HIV, vì tế bào họ không cho phép virus HIV lọt vào . Chẳng hạn tháng 6 năm 1992 , bà Loreen Willenberg, một nhà họa kiểu sân vườn lúc đó 38 tuổi , mơ thấy mình bị lây nnhiễm HIV từ cựu hôn phu , nên bà đi thử nghiệm. Thử nghiệm mơ hồ , không xác định. Nhưng giấc mơ vẫn ám ảnh bà, bà bèn đi thử lại hai tuần sau . Kỳ này, thử nghiệm dương tính. Tháng 9 năm 1992, bà nhờ một chuyên viên HIV giúp và số đếm CD4 rất là cao, trên 1800. Bác sĩ bảo bà đây là một chuyện kỳ lạ, khuyên bà nên theo dõi. Sau 3 năm không tìm ra siêu vi HIV và tiếp tục có con số đếm CD4 cao , bác sĩ nói cho bà biết là bà thuộc vào một hạng đặc biệt đang được các viện y tế NIH Hoa Kỳ nghiên cứu. Họ bị lây nhiễm, và tiếp tục lây nhiễm, nhưng họ không đau bệnh AIDS. 20 năm sau chẩn đóan bệnh, Willenberg vẫn mạnh khỏe và đã tham dự nhiều nghiên cứu dài hạn mục đích giải mã lý do tại sao thân thể bà lại thắng được AIDS.
Thọat tiên, các nhà khoa học tư biện là các bệnh nhân ,tỉ như bà Willenberg, bị lây nhiễm bằng một dịch bản yếu kém của HIV. Nhưng Joel Blankson của trường y khoa, viện Johns Hopkins lại thấy khác: họ bị lây nhiễm bằng một mầm bệnh virus hoàn tòan. Ông kể ra một nghiên cứu ông làm với một cặp vợ chồng, một vợ một chồng, bị lây nhiễm cùng chung một dòng HIV. Ông chồng trước đó là một tay hút ma túy, đã bị virus lây nhiểm 20 năm trước . 7 năm sau bà vợ được chẩn đóan bệnh. Ông chồng đang phải dùng phép chửa trị, gồm 3 lọai thuốc chống vi trùng ngược và bà vợ là một kẻ chèn ép thượng lưu , chưa bao giờ mắc bệnh cả .
Chỉ đến nay , các nhà khoa học mớ bắt đầu hiểu rỏ hóa học sinh học làm điều kể trên có thể xảy ra. Một thừa tố : khác biệt về protein giám sát tên gọi là kháng gen bạch cầu con người– human leucocyte antigens ( HLAs ), gán khít trong các tế bào chúng ta. Chức năng các phân tử này là chuyễn thoi đưa các protêin phá vỡ gọi là các peptides từ bên trong tế bào ra ngòai bề mặt, nơi các tế bào miễn nhiễm khác thanh tra chúng xem chúng có phải là kẻ xâm lăng hay không. Có hàng ngàn dạng HLAs , thế nhưng các kẻ chèn ép thượng lưu có khuynh hướng chỉ chứa hai lọai đặc thù là HLA – B*27 và HLA-B* 57 . Năm 2010 , viện Ragon ( thành lập để làm dễ dãi hợp tác giữa các nhà khảo cứu vaccines tại Bệnh Viện Tổng Quát Massachusetts General Hospital- Harvard ), đăng tải một nghiên cứu gợi ý rằng những kháng gen này có thể giúp giáo huấn các tế bào miễn nhiễm CD8 làm chúng thêm uy vũ chống lại HIV, cũng như chống viêm gan – hepatitis C. Mọi tế bào miễn nhiễm CD8, cũng như các tế bào CD4 chứa HIV, trưởng thành trong tuyến ức – thymus ( một bộ phận thân thể chuyên sản xuất các tế bào C ), trước khi nhận nhiệm vụ tích cực trong thân thể . Khi ở đó, HLAs phơi bày các tế bào CD8 cho một lọat peptides, của con nguời cũng như ngọai nhân. Vài HLAs - đặc biệt HLA-B*57 có khuynh hướng dính chặc ở tỉ lệ cao hơn với các hạt tử ngọai lai. Có nhiều HLA-B*57, có nghĩa là các tế bào CD8 sẽ càng bị phơi bày dưới một dãy peptides ngọai lai rộng lớn hơn, cải thiện khả năng chúng nhận diện và sát thủ các kẻ xâm lăng, kể luôn cả HIV. Tuy nhiên gần đây, Bruce Walker và đồng nghiệp tìm thấy là trong khi các kẻ chèn ép thượng lưu có một bộ genes làm mã số cho HLA-B, những genes này “ không cần hay đủ” để kiểm sóat virus. Nói một cách khác, vài kẻ chèn ép thượng lưu thiếu các gen HLA-B và những kẻ không phải là chèn ép thượng lưu lại có những gen này. Thế cho nên khảo cứu vẫn còn tiếp diễn. Chẳng hạn mới đây, họ tìm thấy một nhóm kẻ chèn ép thượng lưu có những mức độ cao p21, một protein chống lại ung thư bằng cách làm rối lọan những khía cạnh then chốt chu trình đời sống HIV trong la bô.
6- Những thuốc chủng- vaccines mới.
a- Có lẽ trước tiên nên nhắc lại vài từ ngữ vững cho thuốc chủng – vaccines .
- Kháng thể - antibodies: là một protein hình Y dính kết cùng một mục tiêu đặc thù sinh hóa học ở thân thể và làm dấu nó để cho hệ thống miễn nhiễm phá hủy hay lọai bỏ. Rất nhiều lọai kháng thể gây nên những phản ứng miễn nhiễm khác nhau, từ làm mô - tissue sưng lên và sản xuất chất nhầy – mucus của một phản ứng dị ứng – allergy đến viêm sưng rất năng nổ giết chết mô.
- Kháng gen – antigen : bất cứ một chất nào, thường là một yếu tố ngọai trong thân thể, dính kết với một kháng thể đặc thù và gây ra một phản ứng miễn nhiễm. Các protein virus hay vi khuẩn là những kháng gen thường thức.
- Hổn lọan tự miễn nhiễm- autoimmune disorder : một bệnh tỉ như tiểu đưòng lọai 1, trong đó hệ thống miễn nhiễm tấn công các mô thân thể lành mạnh.
- Cytokine : là một phân tử ra dấu của hệ thống miễn nhiễm, để điều hòa cường độ, thời gian dài ngắn và hướng đi của phản ứng miễn nhiễm.
- Tế bào T: một tế bào miễn nhiễm có thể giết chết vừa một tế bào bị hư hại lẫn các vi trùng – microbes . Vài tế bào T cũng có thể chỉ dẫn hành động các tế bào miễn nhiễm khác.
- Tế bào điều hòa T: là một tế bào điều hòa miễn nhiễm mà nhiệm vụ là dập tắt các phản ứng miễn nhiểm phá hại.
Cách đây 200 năm, Edward Jenner dùng thuốc vaccine phát triễn đầu tiên, tiêm một chất lỏng từ da bị hư hỏng của một cô công nhân vắt sửa bò vào một thiếu niên 8 tuổi . Bác sĩ Anh này biết rỏ là cô vắt sửa bò đã nhiễm bệnh đậu mùa – small pox, một bệnh ngòai da tương đối nhẹ , khi cô miễn nhiễm bệnh đậu mùa nặng hơn. Đậu mùa lúc đó giết chết 400 000 người một năm ở Âu Châu. Jenner hy vọng rằng chất lỏng từ các mụt đậu mùa sẽ giúp thiếu niên chống lại tai họa đậu mùa . Linh cảm của Jenner tỏ ra xác đáng. Ngày nay vaccine ( vaccinia la tên la tinh của bệnh đậu mùa ) đủ thể dạng cứu sống 3 triệu người một năm trên thế giới, mà không tốn kém gì nhiều. Phí tổn chích ngừa bệnh sởi- measle chẳng hạn ít hơn 1 đô la Mỹ một liều. Vaccine huấn luyện hệ thống miễn nhiễm nhận diện và đẩy lui những mầm bệnh nguy hiểm có thể bảo vệ chống lại bệnh hàng chục năm, có khi suốt đời. Các vaccines ngăn ngừa họat động bằng cách du nhập những chất làm dấu – markers hóa học vi trùng không tai hại, tên gọi là kháng gen, giống như những chất làm dấu trên vi trùng còn sống. Các kháng gen huấn luyện hệ thống miễn nhiễm nhận diện và phá hủy vi trùng, nếu chúng xuất hiện trong thân thể. Chích các kháng gen đậu mùa vào dòng máu bệnh nhân, chẳng hạn, Jenner khơi mào hệ thống miễn nhiễm tấn công virus đậu mùa tương tự. Ngày nay, các nhà khoa học y khoa dùng những ý kiến của Jenner vào những hướng mới mẽ khác. Họ đang khai thác hiểu biết tăng gia về hệ thống miễn nhiễm để phát triễn những vaccines chửa trị: những lọai vaccines không phải để ngăn ngừa lây nhiễm mà để đánh bật gốc rễ những bệnh đã thâm căn hay ngay cả thay đổi cách nào thân thể thực hiện chức năng. Mùa xuân năm 2010, Cơ Quan FDA đã chấp thuận Provenge, một vaccine đánh thối lui ung thư tuyến tiền liệt – prostate cancer. Provenge là con đầu thế hệ mới các vaccines chửa trị đã được phổ biến rộng rải. Đây có lẽ chỉ là một nhỏ giọt của dòng thác lũ! Một nghiên cứu năm 2010 của hảng phân tích thị trường BCC Research xác định 113 vacines chửa trị đang phát triễn, nhiều vaccines đã thử nghiệm trên người.
b- Chích ngừa ung thư
Hiện nay ở Hoa Kỳ có 1.5 triệu người đã chẩn đóan là mắc bệnh ung thư. Các bệnh nhân ùa vào xin được chích thuốc mới trị ung thư ,vì các nhà khảo cứu ung thư là nhóm năng nổ nhất thí nghiệm các vaccines chửa trị. Theo Lloyd Old, nhà miễn nhiễm học ung thư, các vaccines ung thư là những ngựa săn – stalking horses cho các vaccines chửa trị. Tại viện Khảo cứu Ung thư New York, Old là giám đốc chương trình quốc tế Hợp tác Làm Vaccine Ung thư , mục đích chống trả ung thư từ trong đến ngòai . Phần lớn công trinh này căn cứ trên các nghiên cứu tiền phong của Old về hệ thống miễn nhiễm 50 năm vừa qua. Khảo cứu của ông xây đắp trên nhận xét sâu sắc của bác sĩ mỗ xẽ William Coley : là không biết vì lý do gì các bệnh nhân, sau mổ xẽ ung thư, thường hay thuyên giảm Năm 1981, Coley tiêm vào các bệnh nhân ung thư xương giai đọan cuối một liều vi khuẩn cầu chuổi – streptococcus, gây bệnh cầu chuổi ở cỗ họng – strep throat. Thuốc chích này làm nhỏ bớt u ung thư, nhưng lại làm lây nhiễm giết chết 2 bệnh nhân. Sau đó ông thử nghiệm tiêm một phối hợp của các vi khuẩn đã bị nhiệt giết chết, một pha trộn tên gọi là độc tố Coley. Tuy việc này vẫn còn tranh cải, vaccine ung thư Coley đã được dùng rộng rải, mãi cho đến khi các phép chửa trị phóng xạ và hóa học trở thành tiêu chuẩn từ thập niên 1940. Đến thập niên 1950, khi Old khởi sự khảo cứu ung thư, độc tố Coley đã bị ghi vào sổ đen Hội Ung Thư Hoa Kỳ. Nhưng Old lại hứng khởi khi nhìn vào những thành quả của Coley, nhất là khi thấy báo cáo các u ung thư chuột xẹp bớt, rồi biến mất sau 2 tuần lễ, khi tiêm zymosan , một chất trích từ mốc meo – yeast. Tiếp tục khảo cứu những phương cách thân thể làm sạch ung thư, ông xác định được một cytokines đầu tiên, một phân tử ra dấu hiệu miễn nhiễm. Cytokines hướng dẫn cuộc nói chuyện sinh hóa các tế bào miễn nhiễm sử dụng, để phối hợp các họat động Cái nhìn của Old gợi ý là độc tố Coley hửu hiệu, vì rằng nó lừa thân thể phải giải tỏa ra một lọat cytokines, bằng cách phơi bày hệ thống miễn nhiễm chống lại một cái gì tuồng như tương tự một cuộc vi khuẩn tấn công mảnh liệt. Rồi thì các cytokines chỉ thị một phản ứng miễn nhiễm chống vi khuẩn, một cuộc tàn sát giết luôn cả các tế bào ung thư .
Rất nhiều vaccines ung thư đang phát triễn ngày nay, sử dụng các hiểu biết hiện hửu cách nào vài tá các cytokines này giúp phối hợp một phản ứng làm sạch ung thư hửu hiệu. Vaccine ung thư HPV quảng cáo nhiều , kể cả tranh luận ở vận động bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm tới 2012, họat động theo lề lối truyền thống hơn : nó làm mồi cho hệ thống miễn nhiễm đẩy lui virus ung thư nhú – papillomavirus , có thể gây ra ung thư cỗ tử cung – cervical cancer . Hầu chế tạo Provenge vaccine tuyến tiền liệt, các nhà sinh hóa học Tổ hợp Dendreon Corporation ở Seattle, trích ra từ các tế bào miễn nhiễm một bệnh nhân và tắm nó vào trong một xúp hóa học kháng gen ung thư tuyến tiền liệt, liên kết hóa học với một cytokine la to “ hãy tấn công chúng” . Các tế bào miễn nhiễm kích động được tiêm chích lại vào thân thể bệnh nhân để làm lan tràn hồi trống dục mau lên đuờng tiến quân.
c- Thuốc chủng chống tiểu đường
3 triệu dân Hoa Kỳ đau bệnh tiểu đường lọai 1. 400 000 đã được chẩn đóan là mắc bệnh đa xơ cứng .
Ở ung thư, hệ thống miễn nhiễm quá hiền lành đối với các tế bào mang bệnh trong thân thể. Ở bệnh tự miễn nhiễm, vấn đề ngược hẳn: . Vì những lý do chưa biết rỏ , tế bào hệ thống miễn nhiễm lầm lẫn chống lại các mô lành mạnh, tỉ như các tế bào bê ta trong lá lách – pancreas làm ra insulin ( tạo ra tiểu đường son trẻ - juvenile diabetes) hay các vỏ bọc chất béo che chở dây thần kinh ( bệnh đa xơ cứng – multiple sclerosis ). Nhiệm vụ của vaccine tự miễn nhiễm là đóng kín lại những cuộc tự tấn công này. Một phương pháp hứa hẹn là tăng cường các tế bào điều hòa T , viết tắt là T regs , mới khám phá gần đây ở nhóm phụ các tế bào máu trắng gọi là tế bào T . Tại Trung tâm Khảo cứu Tiểu đường viện đại học Calgary, bang Alberta Canada, nhà miễn nhiễm học Pere Santamaria đang tụ điểm trên những tế bào ông gọi là T reg “yếu đuối” , tuồng như chỉ có một phản ứng kháng gen rất là kém cõi. Theo Santamaria , đa số các nhà miễn nhiễm học cho rằng các tế bào này là rác rưới, ở hệ thống , nhưng không có bất cứ gì trong thân thể là rác rưới cả thảy. Santamaria nghĩ rằng những T regs yếu đuối được làm ra để cản trở những phản ứng miễn nhiễm đang nẩy lên , trước khi chúng trở thành kẻ đe dọa. Theo tính chất, các tế bào yếu đuối T regs có thể trưởng thành làm ra các tế bào T sát thủ để nhổ sạch mọi tế bào miễn nhiễm khác đang tấn công các mô lành mạnh. Hầu chế tạo các vaccines trị tiểu đường, Santamaria đã cột một cốc ten kháng gen từ các tế bào bê ta của lá lách vào các hạt tử nanô oxid sắt tổng hợp sinh học. Chất lai tổng hợp sinh học này kích thích phát triễn các T regs yếu đuối thành các tế bào sát thủ phá hủy các tế bào miễn nhiễm đang chỉ huy tấn công tự miễn nhiễm. Sau khi thử nghiệm trên chuột thấy vaccine đã phục hồi các mức đường và insulin đã bị tiểu đường và ngăn ngừa hay làm chậm đi tiểu đường đang xuất hiện trên chuột con chưa mắc bệnh , nhóm Santamaria đang sẳn sàng thí ngjiệm trên người và đang chế tạo những vaccines liên hệ để chửa trị các bệnh tự miễn nhiễm khác gồm cả bệnh đa xơ cứng, viêm thấp khớp- rheumatism arthritis và bệnh sưng khúc ruột – inflammatory bowel.
d- Chủng vaccine chửa trị mập phì
Gần 75 triệu dân Mỹ trưởng thành được xếp vào hạng mập phì –obese.
Chủng vaccine chống lại một hormone của thân thể mình , có vẽ như là ngược lại trực giác hay nguy hiểm. Nhưng để bớt dịch mập phì, một vaccine nhắm vào ghrelin - một hormon ruột – bao tử tuồng như kích thích ăn ngon miệng, có thể đáng làm. Eric Zorrila, một nhà khoa học dây thần kinh chuyên về các rối lọan ăn uống tại Viện Khảo cứu Scripps ở La Jolla, Nam Ca Li giải thích: khi ăn kiêng, thân thể phản ứng như đói lòng và sản xuất ra ghrelin, làm chậm đi chuyễn hóa chất béo – fat metabolism và kích thích ăn thêm . Vaccine Zorrila thí nghiệm chống mập phì là những phân tử ghrelin dính kết hóa học với hemocyanin, một protêin trích từ lỗ then chốt bám dai dẳng của một con ốc sên biển. Hemocyanin đã được biết là tạo ra một phản ứng miễn nhiễm uy vũ trên người. Trên lý thuyết, phản ứng đối với một vaccine phối hợp ghrelin và hemocyanin sẽ làm sạch ghrelin trong dòng máu. Sau khi thử nhiều cấu hình sinh hóa, Zorrilla và đồng nghiệp Kim Janda, năm 2006, đã thấy các chuột mất cân. Tuy nhiên có nhiều nguy hiểm tiềm thế muốn miễn nhiễm chống lại các hóa chất trong thân thể chính mình. Đặc biệt, các nhà khảo cứu phải bảo đảm là các vaccines họ chế tạo không biến thành một phản ứng tự miễn nhiễm cho các tế bào làm ra ghrelin , có cơ kích đọng sưng và viêm sưng nặng nề . Janda và Zorilla đang tiếp tục tinh luyện vaccine hầu thử nghiệm trên người.
e- Phát chủng chích chửa trị dị ứng
Hiện ở Hoa Kỳ có đến 50 triệu người đau khổ vì dị ứng.
Dị ứng là thành quả của một lọai chiến đấu nội tâm nhẹ nhàng hơn khi thân thể trở lại chống chính mình. Chửa trị dị ứng liên hệ đến tiêm chích nhiều lần những liều lượng bé tí xíu chất gây dị ứng- allergens tỉ như phấn hoa , ve- bét mites và mốc meo, đã thực thi gần cả thế kỷ rồi. Mãi gần đây các nhà khoa học không biết rỏ các tiêm chích họat động ra sao. Nhưng tiêm chích phải làm lại ít nhất một lần mỗi tuần lễ trong nhiều tháng, rồi tiếp tục mỗi tháng trong vòng 3- 5 năm. Chúng họat động tốt nhất là khi bị dị ứng nhẹ ở hô hấp , tỉ như sốt cỏ - hay fever , nhưng thường không dùng được để chủa trị các dị ứng nặng đối với thực phẩm hay thuốc men, vì nguy hiểm tạo ra tính qúa mẫn cảm – anaphylaxis, một phản ứng miễn nhiễm có thể nguy đến tính mệnh.
Nhiều nhà miễn nhiễm học nay tin rằng lọai “ khử nhạy cảm – desensitization” chửa trị dị ứng là tăng cường các mức tế bào T-reg đặc thù cho các chất gây dị ứng trong các phát tiêm chích. Sau đó, khi các tế bào T reg gặp phải các chất gây dị ứng liên hệ, chúng phản ứng bằng cách tiết ra cytokines làm dịu bớt viêm sưng. Trang bị với những hiểu biết sâu đậm như thế, các nhà khảo cứu đã cố gắng chế tạo các vaccines dị ứng an tòan hơn và hửu hiệu hơn, họa kiểu chúng để vi xử lý phản ứng miễn nhiễm dị ứng. Nhà miễn nhiễm học Thụy Sĩ Martin Bachmann tìm thấy họa kiểu này khi bắt chước một lây nhiễm vi khuẩn. Ông lấy DNA từ vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis trượt chúng vào những cáp sun protein tổng hợp giống những kiểu virus sản xuất . Bachmann nói: hệ thống miễn nhiễm ngay tức khắc nhận diện khuôn mẩu, mô hình như thể một kẻ xâm lăng ngọai lai. Điều này thúc đẩy hệ thống miễn nhiễm tạo ra thêm những T regs sản xuất cytokines và xóa bỏ phản ứng dị ứng thân thể.
Khi tiêm vào các động vật vaccine lai virus – vi khuẩn của Bachmann, cảm ứng một phản ứng kháng thể mạnh mẽ công ty Cytos Biotechnology của ông đang khai thác, để họa kiểu vaccines chống trả hai hổn lọan viêm sưng thường. Năm 2009, Cytos báo cáo các thành quả nghiên cứu trên 299 bệnh nhân dị ứng với các bụi ve – bét. Bachnann cũng thành công với một vaccine suyễn, cũng sử dụng phối hợp virus – vi khuẩn. Trên các thử nghiệm lâm sàng, với các bệnh nhân bị suyễn vừa vừa, đã nhận chửa trị steroid kinh niên, vaccine đã tỏ ra cũng hửu hiệu như steroids ngăn chặn suyễn.
f- Chích chủng chống bệnh tim
Các bệnh tim mạch giết chết hơn 800 000 dân Hoa Kỳ mỗi năm .
Vài thuốc chủng chửa trị mới nay được họa kiểu để tấn công thân thể, dù theo cách chọn lọc. Một vaccine mới thí nghiệm chống bệnh tim, nhắm vào các chất sinh hóa học không mong muốn trong thân thể, đặc biệt là protêin mỡ tỉ trọng thấp - low density lipoprotein viết tắt là LDL, thường được gọi là cholesterol xấu – bad. Khi những số lượng lớn LDL cholesterol tuần hòan qua dòng máu, chúng có thể đọng ở vách các động mạch, dẫn đến xây đắp các vết – plaque và khởi động sưng. Các vaccines chống lại cholesterol khuyến khích hệ thống miễn nhiễm tấn công LDL, đã được thử nghiệm hàng chục năm nay rồi , nhưng những thử nghiệm trước đây đều có thành quả pha trộn , khi được khi không, trên động vật.
Một phần vấn đề có thể là vì tấn công miễn nhiễm quá năng nổ trên động mạch bị vết đóng ở động mạch có thể làm tình trạng tai hại hơn, theo lời của Prediman Shah, giám đốc bệnh tim ở Trung tâm Y khoa Cedar- Sinai, thành phố Los Angeles. Vào giai đọan xây đắp sớm cholesterol, hệ thống miễn nhiễm lấy LDL ra khỏi các vách động mạch nhờ một phản ứng kháng thể làm sạch tương đối nhẹ nhàng. Nhưng nếu các vết tiếp tục xây đắp, phản ứng miễn nhiễm có thể leo thang, biến thành một viêm sưng làm hư hại thêm các động mạch và làm nghẹt – clogs chúng với những mảnh vết và xác các tế bào chết .
Shah nói : điều cuối cùng chúng ta cần là hư hại thêm lên vì viêm sưng. Shah đã hợp tác với JanNilsson, nhà sinh học tế bào Thụy Điển, để chế tạo một vaccine tăng cường các kháng thể có nhiệm vụ lấy đi nhẹ nhàng các vết ,trong khi đó làm kiệt sức viêm sưng hư hại động mạch . Họ tìm thấy là họ có thể thao tác phản ứng miễn nhiễm mong muốn bằng cách làm biến thiên các mảnh phân tử LDL họ đưa vào trong vaccine . Họ cũng khám phá là vaccine hạ huyết áp trong chuột nhắt và bảo vệ chống lại sự nứt vở chứng phình mạch – aneurysms .
Shah và đồng nghiệp chờ đợi hòan tất các nghiên cứu trên động vật cuối năm 2011, rồi dự tính sẽ yêu cầu FDA cho phép làm các thử nghiệm trên người. Ông lưu ý là không nên xem nhẹ các thách thức vì các thành quả tai hại trên một bệnh nhân, khi thử một vaccine tương tự chống trả bệnh Alzheimer. Cũng như bệnh tim mạch , Alzheimer liên hệ đến xây đắp vết – plaque , trong ca này là các protein bê ta – amyloid quấn lọan ở nảo. Năm 1999, các nhà khoa học đăng tải những thành quả ngọan mục về một nghiên cứu chửa trị chuột nhắt lành một bệnh tương tự Alhzeimer. Vaccine chứa những mảnh protein beta-amyloid và chỉ dẫn một tấn công miễn nhiễm chống lại chúng . Nhưng khi nhanh nhẩu làm thử nghiệm lâm sàng, thì 18 người trong số 298 bệnh nhân Alzheimer tham dự , phát triễn viêm sưng óc nảo đe dọa tính mệnh. 12 người phục hồi, nhưng 6 người đau khổ vì hư hại nảo vĩnh viễn. Nhiều năm sau , mỗ xẽ khám xác thấy là vaccines thật sự đã làm sạch các vết trên óc nảo các thiện nguyện, nhưng viêm sưng liên hệ đã hủy diệt những mô khác trong óc nảo.
g- Chủng chửa trị nghiện ngập
46 triệu người hút thuốc lá ở Hoa Kỳ. Ước lượng 1.6 triệu dân Mỹ dùng cocaine năm 2009 .
Cố gắng sản xuất vaccine chống nghiện ngập bắt đầu từ thập niên 1970, nhưng các thử nghiệm lâm sàng mới đã biết là khởi sự vào giữa thập niên 1990, khi Babara Fox , lúc bấy giờ là một nhà miễn nhiễm học của tổ hợp ImmuLogic Pharmaceutical Corporation, giúp phát triễn một vaccine chửa trị cocaine. Theo bà, rào cản là làm thế nào cho hệ thống miễn nhiễm đăng ký và tấn công phân tử côcaine, nhỏ nhoi, tương đối không phức tạp cho lắm hơn là các proteins sinh học phức tạp, điển hình tìm thấy ở các vi trùng. Fox và đồng nghiệp cột một phân tử cocaine vào một mảnh của độc tố vi khuẩn dịch tả - cholera sản xuất. Phân tử này theo Fox, tự nó không độc hại, nhưng nó là thành phần tạo nên một phản ứng mạnh mẽ nhất từ hệ thống miễn nhiễm. Ở các la bô động vật , vaccine mau lẹ kích thích hệ thống miễn nhiễm sản xuất các kháng thể đặt hàng, để cột vào các phân tử côcaine. Khi đã dính kết, các kháng thể làm các phân tử cocaine thành quá to lớn để trượt rào cản khít khao máu – nảo.
Vaccine Fox đã được bác sĩ tâm thần học- psychiatrist Thaomac Kosten, trường đại học Y khoa Baylor, thành phố Houston, bang Texas cải thiện. Năm 2009, Kosten báo cáo thành quả một thử nghiệm lâm sàng có 115 bệnh nhân nghiện cocaine, phân nữa được chích vaccine. Vaccine đã sản xuất một phản ứng kháng thể mạnh mẽ trên 38% số người nhận vaccine. Khám xét sau từ 2 đế 4 tuần, cho biết là 45 % số này đã sạch hẳn cocaine. Hơn nữa, những thử nghiệp nước tiểu, hầu xác nhận là đã thôi dùng cocaine, tiết lộ là nhiều người đã phá ngang vaccine bằng dùng liều lượng cocaine quá cao. Kosten cho biết vài mẩu nước tiểu cho thấy những mức côcaine trên 1 triệu nanogram trong 1 millimét và Kosten chưa bao giờ thấy trên người mức côcaine trên 100 000 . Tuy nhiên, không một ai chết vì bệnh tim hay chảy máu nảo, như chờ đợi khi mức cao côcaine đến tim hay đến nảo. Vaccine đang được thử nghiệm lâm sàng trên mọi bang nước Mỹ và hy vọng sẽ hoàn tất trong 1 năm.
Kosten cung đang khảo cứu các vaccines chửa trị methamphetamines và các thuốc phiện- opiates; là những thuốc chủng Viện Quốc Gia về Lạm dụng Thuốc Hoa Kỳ NIDA lưu tâm. Giám đốc NIDA Nora Volkow, một bác sĩ tâm thần đã sử dụng hình ảnh nảo để khảo cứu những đặc tính của NicVax, một vaccine chửa trị nghiện hút thuốc lá, vừa nhận 10 triệu đô la trợ cấp của NIDA do hảng Nabi Biopharmaceuticals làm ra . Vaccine tạo ra những kháng thể cho nicotine, bằng cách liên kết phân tử làm nghiện ngập với độc tố vi khuẩn đã mất hiệu lực. Cũng như với vaccine côcaine, những kháng thể thành quả không làm sạch nicotine trong máu, chỉ dính chặc vào đó , tạo nên một phức tạp hóa học quá to lớn để di chuyễn vào nảo. Thọat tiên Volkow nghi ngờ vaccine nicotine. Nhưng trên một nghiên cứu dẫn đường, thử nghiệm trên những kẻ nghiện nặng, 24 % ai đã nhận NicVax thì sạch hút 2 tháng trong thử nghiệm 6 tháng này. Trong số người phát triễn kháng thể hút, số điếu họ hút giảm đi rỏ rệt. Chưa biết rỏ là hiệu quả vaccines kéo dài bao lâu và người nghiện có chuyễn qua thuốc khác không ? Nhưng NIDA đã chấp nhận phương pháp và nay đang khảo cứu một vaccine chống heroin , đã được dùng ở nhiều quốc gia làm vectơ – vector truyền HIV .
( chiếu theo số tháng 10, 2011, nguyệt san Khám Phá - Discovery )
Irvine , Nam Ca li, ngày 30 tháng chín năm 2011 )