Lên mạng ngày 5/10/2011
Cố tâm biết rỏ hơn về:
Cây gỗ trầm hương – kỳ nam
G S Tôn Thất Trình
Gỗ kỳ nam trên Anh là Calambac. Gỗ trầm huơng tương tự gỗ kỳ nam, nhưng có phần cứng hơn và tìm thấy nhiều hơn ở nước nhà . Gỗ trầm hương tên Nhật là jinkò, tên Tàu là Chénxiàng. Mọi từ này đều có nghĩa là “nhan làm chìm- sinking incense”, ngụ ý là hương thơm – nhan đốt cúng tỉ trọng lớn, làm chìm- trầm . Ở Nhật có nhiều hạng jinkò, hạng nhất tên là kyara . Ở Ấn Độ tên là agar ( không phải thạch agar lấy từ tảo biển), nguồn gốc tiếng Phạn – Sanskrit gọi là aguru . Cả hai lọai gỗ agar- - agarwood và lọai nhựa – resin chiết trích hay chưng cất gỗ trầm hương , ở các xứ Ả Rập có tên là oud ( oud thông thường dùng để gọi mọi lọai gỗ ). Thái Lan gọi gỗ trầm hương là “ Mai Kritsna” . Lào gọi là “Mai Ketsana”. Âu Châu gọi là gỗ đại bàng – eaglewood - Agilawood, tên la tinh là Lignum Aquila; đôi khi còn gọi “ lầm” là Aloeswood.
Thật ra, gỗ trầm hương hay dầu trầm hương đã được dùng từ lâu ở các nền văn minh xưa cỗ , nổi tiếng cho các lễ lạc văn hóa tôn giáo xưa. Vào thế kỷ thứ 3, Wa Zhen – Hoa( ? ) Dương, thời Đông Vũ – Eastern Wu Dynasty đã nói tới trầm hương một lòai hương lạ Nam Châu nghị vũ dị - Nan zhou yi wu zhi ( Strange Things from the South ) sản xuất ở quận Nhật Nam – RiNan nay là miền Trung Bộ Việt Nam và cách nào dân dịa phương khai thác gỗ trầm hương. Kể từ năm 1850, khi chúa Tiên Nguyễn Hòang được bổ nhiệm cai quản Thuận Hóa và Quảng Nam, vị chúa Nguyễn đầu tiên đã khích lệ buôn bán với các nước ngòai, đặc biệt là với Trung Hoa và Nhật Bổn; trong số hàng xuất khẩu có gỗ trầm hương. Xứ Đàng Trong phân lọai trầm hương ra làm ba hạng: Kỳ Nam ,tên gọi thế giới là Calambac , trầm hương ( tương tự Kỳ Nam nhưng gỗ cứng hơn ), và agarwood. Một cân Anh thương gia mua ở Hội An giá 15 lạng – tael bạc, có thể bán lại ở Nagasaki 600 lạng . Sau đó các chúa Nguyễn dành độc quyền mua bán Kỳ Nam - Calambac . Độc quyền này đã giúp làm vững mạnh tài chánh thuở ban đầu thiết lập xứ Đàng Trong- Nam Hà.
Đôi chút thực vật học về cây cho gỗ Trầm Hương
Trên thế giới ngày nay có 15 lòai – species cây ở tông chi- genus Aquilaria ; trong số này 8 lòai sản xuất gỗ trầm hương agarwood. Theo lý thuyết, mọi lòai đều sản xuất được Agarwood , nhưng mãi gần đây phần lớn thuộc lòai A. malaccensis. Hai lòai A. agalloccha và A. secundaria đồng nghĩa A.malaccensis . Hai lòai A. crassna và A. sinensis của tông A .kể trên cũng sản xuất thu họach khá nhiều gỗ trầm hương. Theo Ng,L. T. và Al. ( 1997 ), sau đây là tên khoa học của các loài sản xuất được agarwood:
A.. khasiana ở Ấn Độ ; A. apiculina ở Phi Luật Tân; A. baillonil ở Thái Lan và Cambốt ; A . baneonsis ( banaense ? ) ở Việt Nam , A . brachyanta ở Mã Lai Á ; A. beccarain ở In đônêxia : A.crassna ở Cam bốt, Mã Lai Á, Thái Lan và Việt Nam; A. cumingiana ở Inđônêxia và Mã Lai Á ; A. filaria ở Trung Quốc , A. grandiflora ở Trung Quốc : A . hilata ở Inđônêxia và Mã Lai Á; A. malaccensis ở Mã lai Á , Thái Lan và Ấn Độ ; A . microcarpa ở Inđônêxia và Ấn Độ ; A. rostrata ở Mã Lai Á ; A. sinensis ở Trung Quốc, A. subintegra ở Thái Lan . Theo Robert Blanchette , la bô khảo bệnh cây rừng và vi trùng học Gỗ, viện đại học Minnesota, Hoa Kỳ ( 2006 ) tông chi thực vật Gyrinops rất gần gũi tông Aquilaria và trong quá khứ mọi loài tông Gyrinops đều thuộc Aquilaria .
Theo GS Phạm Hòang Hộ ( Cây cỏ Việt Nam, I , II, III - 2003, họ thực vật Trầm hương- Thymaelaeceae gồm các tông có tên dó là Aqualaria có 3 lòai, Wikstroema có 7 lòai ; Daphne có 2 loài, các tông Gyrinops , Rhamnoneuron, Edgeworthia, Linostoma, Enkleia chỉ có một lòai đinh danh ở nước nhà . Trong số lòai này , chỉ có một loài GS Hộ cho là gỗ có thể nhiễm nấm để cho gỗ trầm hương . Đó là lòai Aquilaria crassna, tên Việt Nam là dó bầu hay trầm, một đại mộc cao 4- 10 m mọc ở rừng Phú Khánh, Bảo Lộc, Phú Quốc, ghi thêm là trầm tốt nhất là ở Ninh Hòa và trầm mắc nhất là kỳ nam ; làm chất bổ dưỡng, phấn dương trị đau bụng, đau bao tử … , kháng sinh chống vi khuẩn lao , trị nọc rắn . Lòai Trầm Xà Nghét lòai Linostoma decandrum ở Kontum, Phú Quốc cho trầm không tốt .
Thân hay rễ những lòai Aqualaria kể trên phải được một lòai nấm nang vách đậm – dark wall ascomycete Phaeocremonium parasitica ( tên cũ là Phialophora parasitica ) lây nhiễm. Cây phản ứng sản xuất ra một nhựa – resin, chứa nhiều hợp chất hửu cơ bốc hơi, giúp ngăn cản hay làm chậm mức nấm tăng trưởng. Trong khi gỗ không bị nấm lây nhiễm tương đối nhạt màu hơn, nhựa làm tăng mạnh mẽ khối lượng và tỉ trọng gỗ bị nấm xâm nhập, biến gỗ từ màu đà lợt qua màu nâu đen hay màu đen ( chiếu theo Crous và al – 1996 ) . Ở rừng thiên nhiên , chỉ khỏang 7 % cây trầm hương già là bị nấm lây nhiễm mà thôi. Nay Cơ Quan “Dự án Rừng mưa – Rainforest Project Foundation”, một cơ quan bất vụ lợi mục đích bảo tồn rừng thế giới, sau 12 năm khảo cứu đã tìm ra một phương pháp sản xuất nhựa trầm hương ở các rừng nhân tạo trồng cây gây lại rừng trên những cây Aqualaria còn non trẻ. Kỷ thuật là làm các cây trầm hương bị thưong một cách đặc thù( ? ) và áp dụng nhiều cách chửa trị để cho cây gia tốc sản xuất vững bền nhựa trầm hương trên cây tương đối còn trẻ. Sản xuất vững bền agarwood trên cây trồng gây lại rừng, như vậy khỏi cần yêu cầu phải chặt đốn các rừng cây già để kiếm nhựa gỗ trầm hương, giúp bảo tồn những rừng già đang bị nguy cơ tuyệt tích. Theo GS Blanchette (tháng 2 , 2011) rừng trồng tái lập cây trầm hương sản xuất gỗ nhựa trầm hương đầu tiên trên thế giới là ở Việt Nam ( có sự tham gia của tiến sĩ giảng sư thực vật học, đại học tổng hợp Sài Gòn và giảng sư đai học Nông Lâm Thủ Đức?, nhưng không rỏ rừng trồng ở đâu, diện tích bao lớn và năng xuất gỗ có trầm hương và kỳ nam là bao nhiêu ?). Ngòai Việt Nam , cũng có nhiều quốc gia khác trồng lại Aquilaria để sản xuất nhựa trầm hương . Thành công hay thất bại tùy thuộc cách kích thích cây sản xuất agarwood. Có nhiều kỷ thuật làm cây lây nhiễm nấm đã phát triễn , nhưng mức thành công thay đổi tùy nơi . Chưng cất gỗ trầm hương để trích tinh dầu trầm hương dễ dàng dụng cụ thô sơ . Tồn trữ nhựa và chuyên chơ đi xa cũng dễ dạng
Vài công dụng thế giới ngày nay của nhựa, tinh dầu trầm hương
Thời xưa, muốn có nhựa trầm hương để trích tinh dầu, cần đốn những cây già Aquilaria hay Gyrinops một cách hổn lọan ( Ngậm ngãi tìm trầm ?) tìm nhựa , thường bị che dấu chỉ ở trung tâm gỗ vài cây già mà thôi. Ngày nay tại nhiều nước Đông Nam Á, nơi sinh sống các lọai cây trầm hương, tìm cây cho gỗ trầm hương càng ngày càng hiếm có , vì thu họach quá lạm thác. Nhựa hay dầu trích bên trong gỗ trầm hương rất cao gíá . Mùi thơm Oud- aoud –oudh- agar- trầm hương , dụ dỗ không phải chỉ là một tinh dầu qúa ngọt ngào thoảng thỏang khêu gợi đất lành và dục tình, mà còn là hương thơm Scheherazade lừa dối quyến rũ, tạo dựng ra 1001 câu chuyện hương thơm cho da dẽ đầm ấm và lạc thú hờ hửng thú dữ. Như chúng ta đã biết thuở xa xưa, oud được sử dung làm thơm chùa chiềng và gia thất. Cũng như được đề cao có nhiều tính chất kích thích tình dục và chửa bệnh . Một chú thích đơn phái tính oud thường cặp đôi với nghệ tây - saffron , hoa hồng , gỗ và gia vị có cơ đóng vai trò phụ ở những dịch bản của Ngõ – Gateway tỉ như Vanille Aoud của Michallef hay môt ngôi sao cay đắng lõi cứng của Killan’ s Pure Oud. Một pha trộn thuốc men, gần như cao su , dịch bản Band –Aid, ould có thể là một mùi vị thu nhận, thôi miên lạ lùng, đất đai, đen thẩm, dai như da thuộc phẩm gía súc vật, tương tự rựợu scotcht, nấm cục hương – truffles hay những bản hòa nhạc giao hưởng Arvo Part. Sau khi thu họach trong rừng sâu Đông Nam Á, gỗ oud , trầm hương được chưng cất và đưa tới thị trường Bombay ( Mumbai ) và Vọng Các – Bangkok , một cách hết sức bí mật, lừa bịp đê tiện và pha lẫn giả mạo không khác chi mấy buôn thuốc phiện cả .
Ngày nay yêu cầu bừng dậy làm nguy ngập nguồn cung cấp tòan cầu. Cố gắng thay thế bằng lây nhiễm nhân tạo các cây Aquilaria với nấm cho nhựa trầm hương, cho thành qủa còn bấp bênh, khi được khi không. Tương tự gỗ đàn hương – sandalwood tuyệt diệu các nhà chế tạo dầu thơm đánh gía cao, oud rất có thể trở thành nạn nhân của mức phổ thông chính mình, trừ phi tài nguyên được xử lý vững bền.
Cần 150 cân Anh gỗ Aquilaria để sản xuất 20 millilít ( gần 4 muổng trà ) để chưng cất ra oud, theo lời Trygve Harris, chủ tiệm Enfluerage ở phố Manhattan - New York chuyên môn sản xuất tinh dầu. Đồn đải là một Sheik Ả Rập Trung Đông đã mua một ki lô oud trị gía 62 000 đô la Mỹ. Harris bán đến giá 120 đô la, 2 millilit oud. Theo Anthony de la Cruz quản trị tiệm nước hoa Barney ở Beverly Hills, giá các hương thơm oud đã tăng thêm 25 % năm ngoái, 2010…
( Irvine , Nam Ca li ngày 3 tháng 10 năm 2011)