Lên mạng ngày 15/7/2011
Chiến tranh điện tử E- warfare thay đổi cục diện chiến đấu , trận mạc
G S Tôn Thất Trình
Cách đây gần một năm , vào tháng 8 năm 2010 , chúng tôi đã thông tin tấn công điều khiển học – cyber attacks theo quan điểm Richard A.Clarke trình bày ở nguyệt san Discover tháng 7-8 năm 2010. Nói qua về cuộc tấn công điều khiển học của Do Thái phá tan lò phản ứng hạt nhân Xi Ri – Syria, Nga tấn công cyber Estonia và Georgia ( Trung Đông ), Trung Quốc tấn công Google và các tòa đại sứ Âu Châu năm 2007 v.v… Nay thì Hoa Kỳ đang tìm kiếm nhiều tỉ đô la để nâng cấp kho võ khí điện tử Hoa Kỳ, khi các kẻ thù của Mỹ cũng đang nâng cấp hệ thống phòng không – air defense systems của họ. Sau đây là quan điểm của W.J. Hennigan , trình bày trên nhật báo Los Angeles Times ngày 11 tháng 7 năm 201.
Trên màn trời xứ Li Bi- Lybya, Bắc Phi , Hải quân Hoa Kỳ đã triễn khai một đội nhỏ máy bay phản lực siêu thanh – supersonic jet EA-18 Growler để làm “ tắc nghẽn – jam” các radar ở mặt đất của Moammar Kadafi, gíúp cho các máy bay chiến đấu - fighters và oanh tạc – bombers tự do bắn phá xe tăng, các kho tồn trữ truyền thông và nhiều mục tiêu chiến lược khác .
Đây là một trình diễn mới nhất của phần cứng – hardware “tấn công điện tử - electronics attacks” gọi là EA trên tên họ Growwler’ s . Các đạo quân đã từng đụng độ điện tử kể từ Thế Chiến Thứ II, nhưng kỷ thuật ngày nay gói trọn một đòn mạnh chiến lược, chưa hề thấy cách đây một chục năm.
Khi các đối thủ ngọai quốc tiếp tục cải thiện khả năng rađar của họ và các mạng lưới phòng không, các khủng bố khắp thế giới sử dụng các đồ điện tử tiêu thụ cận đại để phát động chất nổ, Hoa Kỳ đã phải chi tiêu hàng tỉ đô la trong một cố gắng đồ sộ để giải đáp. Những kẻ làm tắc nghẽn – jammers này, chẳng hạn, khạc ra những làn sóng rađiô và phát đi tiếng ồn ào điện từ - electromagnetism noise khác, hầu trộn lộn xộn lung tung các tín hiệu điện tử thù địch.
Theo lời Peter W.Singer, chánh chuyên viên viên Brooking Institute ( viện nghiên cứu quốc phòng, ngọai giao Hoa Kỳ ) , đó là tiến trào tự nhiên về chiến tranh. Các chiến sĩ chiến tranh đã từ các vỏ khí vật chất như giáo mác và dao búa, lần dần đến các vỏ khí hóa học như thuốc súng và chất nổ, tiến tới điện tử với các làn sóng rađiô và các mã số computer.
Ở thời điểm mọi con mắt đổ dồn vào cắt xén bớt ngân sách quốc phòng ( Hoa Kỳ ) kỷ thuật tấn công điện tử là một trong vài lĩnh vực gồm có chiến tranh điện tử , song song với máy bay vo ve – drone , không người lái và an ninh điều khiển học – cyber security, đã được tống thống Obama rêu rao là muốn chi tiêu thêm. Ngũ Giác Đài đang tìm cách tăng thêm ngân sách các khảo cứu kỷ thuật quốc phòng, gồm cả chiến tranh điện tử , lên đến $12. 2 tỉ đô la trong tài khóa 2012 từ $11.8 tỉ và điều này không gồm cho tiêu cho phần bí mật – classified portion của ngân sách Quốc phòng Hoa Kỳ .
Các nhà chỉ trích kể ra lọai chi tiêu quân sự này là một tỉ dụ khác cho mối sưng vù ngân sách quốc phòng Mỹ tổng cọng là $729 tỉ đô la ( 7- 8 lần hơn tổng lợi tức quốc gia Việt Nam hiện nay). Laura Peterson, nhà phân tích an ninh quốc gia Hoa Kỳ về “ Lý lẽ thông thường cho Kẻ đóng thuế”, nhóm “chó giữ nhà – người kiểm sóat” chánh phủ nói : lẽ dĩ nhiên là phải đặt ưu tiên , nhưng chánh phủ cần tự hỏi vào thời điểm nào đó, liệu chúng ta có cần điều này không ? Chúng tôi chưa thấy loại kỷ luật cần thiết để thật sự gò cương, bước lui cho con ngựa quốc phòng.
Ngũ Giác Đài cũng đã yêu cầu $ 1.1 tỉ chế tạo thêm 12 Growlers nữa, ngay cả khi các nhà thầu quốc phòng đang ganh đua những quyền lợi béo bở xây dựng thế hệ kế tiếp linh kiện làm tắc nghẽn, nới rộng lớn lao thêm khả năng quân sự làm gián đọan hay lừa bịp điện tử thù địch.
Những kẻ bào chửa cho kỷ thuật làm tắc nghẽn nói rằng đây là kỷ thuật tiết kiệm nhất - cost effective ,vì lẽ nó ngăn ngừa các máy bay của Hoa Kỳ hay của NATO - Tổ chức Hòa ước Bắc Đại tây Dương khỏi bị bắn rơi. Theo lời Loren Thompson, nhà phân tích chánh sách quốc phòng cho Viện Lexington Institute ở thị trấn Lexington, bang Virginia thì tăng thêm tài trợ này rất cần thiết duy trì mép nhọn của chiến tranh điện tử. Các quốc gia khác đã tăng cường, cải thiện đáng ngạc nhiên những hệ thống điện tử của họ và đã có phòng vệ tốt hơn chống các tấn công điện tử. Kỷ thuật chiến tranh điện tử -đa số là đại bí mật - nhắm tái lập thăng bằng với những đầu tư hàng triệu đô la quân sự ngọai quốc đã nâng đở phòng không và tiến triễn liên tục radar dò tìm .
Theo giá là 74 triệu đô la cho mỗi máy bay, Growler của hảng Boeing là một vật trưng bày về hiểu biết điện tử của dân Mỹ với hệ thống radar cao lực do hảng Raytheon làm ra và các kẻ làm tắc nghẽn radar chiến thuật do hai hảng ITT Electronics Systems và Northrop Grumman Corp chế tạo. Máy bay Growlers căn cứ ở Trạm Không quân của Hải quân Hoa Kỳ tại Whidbey Island, Washington, trông tựa như các máy bay chiến đấu oai vệ, vỏ trang từ đầu đến đuôi với bom lớn móc ở cánh, sẳn sàng thả xuống quân địch. Sở dĩ như vậy vì Growler là một dịch bản sửa đổi của máy bay F/A- 18 Super Hornet. Nhưng nhìn gần hơn, nó bộc lộ là thay vì bom, nó mang theo một dàn trãi rađar, ăng teng và các bộ phận cao kỷ .
Mỗi một linh kiện móc ở các cánh máy bay Growler, thực hiện nhưng chức năng khác nhau, gồm có xác định chính xác các vị trí rađar địch , chặn bắt và làm tắc nghẽn các tín hiệu rađiô và theo dõi thay đổi các chiến thuật rađar. Theo lời đại tá Mark. W. Darrah, xử lý chương trình Growler của Hải Quân, nhiệm vụ của chúng tôi là kiểm sóat quang phổ điện từ trên chiến trường. Cách duy nhất để biết là một cuộc tấn công điện tử đã thành công là khi nào mọi máy bay trở về căn cứ an tòan, sau khi thi hành sứ mệnh. Chứng cớ chúng thành công ở Li Bi (a) , theo lời ông, là sau 5000 sứ mệnh đánh phá của NATO, không có một máy bay Growler nào đã bị bắn hạ.
Các đoạn thân máy bay Growler được chế tạo bên trong một cơ sở 1 triệu bộ vuông 929.03 triệu cm2 của hảng Northrop, Đại lộ Aviation Boulevard , cách phía Nam Phi trường Quốc tế Los Angeles chừng một dặm Anh ( 1,6 km ).
Mãi cho đến khi Growler được dàn quân ở Libya , Hải quân vẫn còn dùng máy bay Prowler EA thời chiến tranh Việt Nam cho các sứ mệnh tấn công điện tử. Growler hiện tại bay mau hơn máy bay Growler cũ tiền nhiệm , tốc độ đến 1100 dặm Anh một giờ ( 1769 km một giờ) và chỉ cần hai phi công, thay vì 4 phi công ở buồng lái để thi hành sứ mệnh.
Nhưng khi Growler bước vào dịch vụ chiến tranh, công tác đã bắt đầu chế tạo một linh kiện làm tắc nghẽn mới cho máy bay phản lực , hầu đem lại khả năng lớn hơn để làm luống cuống kẻ thù . 4 khổng lồ công nghệ không gian đang cạnh tranh nhau chế tạo một đấu thầu làm linh kiện trị giá $2 tỉ : Northrop, BAE Systems, Raytheon, một nhóm ITT và Boeing. Một ngân khỏan tổng cọng $168 triệu đã được Hải Quân trao cho các công ty để khảo cứu và phát triễn chương trinh này.
Mục đích là khởi sự sản xuất những linh kiện làm tắc nghẽn mới trên máy bay Growler , máy bay chiến đấu F-35 Joint Strike Fifter Jet và có thể luôn cả các máy bay vo ve không người lái , vào năm 2018, theo lời nhà phân tích quốc phòng Thompson .
Những đòi hỏi cho linh kiện làm tắc nghẽn mới, chưa được kết thúc hay tuyên bố. Không biết gì về chi tiết và khả năng, vì lẽ chiến tranh điện tử luôn luôn được màn bí mật bao phủ , hầu tranh tiên thắng lợi các địch thủ tiềm thế. Thế nhưng không làm ngưng nổi xầm xì tư biện cái gì đã được chấp thuận và sẽ dùng nó cách nào. Tuồng như nó sẽ cho Growler khả năng phóng đi những tấn công điện tử băng cách cho viruses lẽn vào các mạng computer địch , trên trời cao cách địch hàng ngàn bộ Anh , theo lời Thompson.
Như đã ghi trên, kỷ thuật đã có thể được Israel – Do Thái sử dụng năm 2007, thả bom một cơ sở hạt nhân xứ Xiri – Syria theo lời nhà chuyên viến chống khủng bố Richard A. Clarke , một cựu cố vấn cho Ủy Ban An ninh Quốc gia Hoa Kỳ trong sách “Chiến tranh Điều khiển học – Cyber War”. Ông ta đã viết là trong cuộc tấn công, Israel đã có thể sử dụng các làn sóng rađiô , để phát đi các gói dữ liệu computer đến mạng lưới phòng không Xi Ri.
Những gói này làm hệ thống hư hỏng, nhưng chúng cũng đuợc chỉ thị là không được hành động như thể là một cái gì sai quấy đã xảy ra với chúng. Chúng có thể chỉ chơi lại trò lượn vòng – do loop trên trời như trước khi tấn công xảy ra. Khung trời xem cũng tựa như trước khi trời trống rổng , ngay cả khi thật sự chúng đầy rẫy máy bay chiến đấu Do Thái.
Chú thích hình máy bay Hải Quân Hoa Kỳ Growler đính kèm :
1- máy nhận tín hiệu làm tắc nghẽn - signal jamming receiver : Hội nhập các tín hiệu nhận từ các ăng teng cho phi đòan sử dụng . Có thể theo dấu các thay đổi rađar địch xuyên qua một bộ dụng cụ quang phổ. 2- hủy bỏ giao thoa ( nhiễu )- interference cancellation : giúp truyền thông tiếng nói , trong khi làm tắc nghẽn điện tử đang tiến hành . 3- Mũ đặc biệt- special helmet: bên trong gương nhìn trưng bày những dữ liệu mục tiêu và chuyến bay . 4- hỏa tiễn không trung – đến không trung ( không – không ) – air to air missile: võ khí mọi thời tiết , có thể bắn các mục tiêu ngòai tầm mắt nhìn . 5- ăng teng làm tắc nghẽn tín hiệu- signal jamming antenna. Rà dò 360 độ để khám phá các tín hiệu rađar và xác định vị trí rađar . 6- Thùng nhiên liệu – fuel tank : mỗi thùng chứa 480 lít . 7- rađar tấn công- attack radar: rađar tầm xa dò tìm các mục tiêu và có thể hội nhập thông tin cho các tài nguyên trên không và ở mặt đất , kể cả xe cộ không gian không người lái. 8- hệ thống làm tắc nghẽn – jamming system : nhận dữ liệu từ một xử lý tín hiệu , nhận diện chữ ký điện tử và chuyễn hướng tín hiệu làm tắc nghẽn đến mục tiêu. 9- hỏa tiễn chống phóng xạ : anti radiation missile : sử dụng để phá hủy rađar địch nếu cần. Nó đến đích các truyền phát từ các vị trí theo tốc độ lớn hơn Mach 2 .