1. MỞ ĐẦU
2. GIAI ĐOẠN TRỒNG LÚA RẪY VÀ LÚA NƯỚC SƠ KỲ (4.500 – 3.000)
3. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TRỒNG LÚA NƯỚC (3.000 – 2.180)
4. THỬ ƯỚC TÍNH NĂNG SUẤT VÀ DIỆN TÍCH TRỒNG LÚA VÀO THỜI CẬN CÔNG NGUYÊN
5. KẾT LUẬN
* * *
1. MỞ ĐẦU
Từ thời kỳ Đồ Đá Cũ đến thời kỳ Đồ Đá Mới và Kim Khí, cư dân trên đất Việt đã tích tụ hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người ngày càng nhiều hơn, qua các nền văn hóa khảo cổ học như văn hóa Sơn Vi trong hậu kỳ Đá Cũ đến nền văn hóa Hòa Bình- Bắc Sơn-Đa Bút của thời kỳ Đá Mới; văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun của thời đại Đồng Thau. Nền kinh tế nông nghiệp ra đời đã giúp cho đời sống con người từ du mục trở nên ổn định và sau đó phát triển nhanh hơn mọi mặt để tiến đến nền văn minh hiện đại hôm nay. Họ đã thuần dưỡng những cây lúa dại đa niên trở thành hàng niên và cây lúa trồng hiện nay, có khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu lương thực dân tộc ngày càng đông. Nghề nông nghiệp lúa tiến bộ được biểu hiện qua kỹ thuật canh tác và các công cụ sản xuất hữu hiệu hơn như rìu, cuốc, cày, mai... bằng đá, đồng, sắt. Ngành trồng lúa rẫy đạt đến mức cực thịnh và nông nghiệp lúa nước bắt đầu xuất hiện sau khi mực nước biển lùi dần. Kinh nghiệm tích lũy của cư dân qua các nền văn hóa nêu trên là tiền đề quan trọng cho sự lớn mạnh công đồng Việt Cổ và hình thành đất nước Văn Lang vào thiên kỷ II và I trước CN, khai sáng nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ trong thời Cổ Đại, và xuất hiện thời đại Hùng Vương-An Dương Vương lớn mạnh trên bờ Biển Đông.
2. GIAI ĐOẠN TRỒNG LÚA RẪY VÀ LÚA NƯỚC SƠ KỲ
2.1. Văn hóa Phùng Nguyên (cách nay 4.500 – 3.500 năm)
Đây là nền văn hóa rất quan trọng, làm trung gian giữa thời đại Đồ Đá và thời đại Kim Khí, mốc ngoặc của nền văn minh vượt bực của dân tộc. Qua các công trình khai quật và kết quả khảo cổ quý giá đã thu đạt được ở nền văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa tiếp theo từ thời Pháp thuộc cho đến nay, các nhà khảo cổ học và sử học khẳng định đã có nhiều bằng chứng cụ thể không những cho sự xuất hiện nền văn hóa Đông Sơn, mà còn xác nhận thực tế “lịch sử 4.000 năm văn hiến của nước Việt Nam” và địa bàn hoạt động có thật của “đất Phong Châu một thời Hùng Vương” (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
Nền văn hóa Phùng Nguyên đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và hình thành một xã hội mới có giai cấp sớm nhứt. Dân tộc Việt cổ bước vào thời đại mới với sức sống mãnh liệt, óc sáng tạo không ngừng và sự đoàn kết giữ nước. Vào thời đại đó, đất nước đã có nền văn hóa khá cao, một nền nông nghiệp hoạt động vững chắc với văn minh lúa nước phồn thịnh, góp phần vào nền văn minh cổ đại của loài người. Đó là thời đại Hùng Vương bắt đầu từ trước đây 4.000 năm với tập hợp của nhiều dân tộc gốc Nam Á (Văn Tân và cộng sự viên, 2008).
Ngoài ra, đất nước Việt Nam chỉ được nhắc đến trong lịch sử nhân loại cách nay hơn 4000 năm, khi sứ giả đầu tiên của Việt Thường (từ Quảng Trị đến Quảng Nam), một trong 15 bộ của nước Văn Lang, sang chầu và dâng tặng “rùa thần” dài độ một thước cho vua Đường Nghiêu vào năm Mậu Thân, năm thứ 5 (nhà Đường Nghiêu: 2357-2258 tr CN) (Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia,1998).
Nền văn hóa Phùng Nguyên tập trung ở khu vực hợp lưu của các sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thao và sông Đáy, thuộc phía nam tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội và phần phía nam của tỉnh Bắc Ninh. Nền văn hóa này xuất hiện và phát triển từ 2.000 năm đến 1.500 năm tr CN. Người Phùng Nguyên thường cư trú trên các gò đồi cao, cách mặt ruộng độ từ 0,5 đến 5-6 m. Tầng văn hóa không dày lắm từ 0,7 đến 2 m. Về nhà ở chưa được rõ ràng, nhưng các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Văn Điển (Hà Nội) nhiều hố đất đen hình tròn, kích thước tương tự nhau, ăn sâu xuống đất, trông giống các hố chôn cột nhà. Họ cũng tìm thấy di tích xưởng chế tạo công cụ đá ở Gò Chè, chế tạo mũi khoan ở Bãi Tự và vòng trang sức ở Tràng Kênh, với trình độ kỹ thuật chuyên môn cao.
Công cụ sản xuất gồm có cuốc đá hình tứ giác có lưỡi lệch về một bên, rìu đá tứ giác có lưỡi cân xứng, trong đó có nhiều rìu chế tạo bằng đá ngọc Nephrite có màu sắc đẹp (Hình 1). Ngoài ra, còn có nhiều đục đá (Hình 2) chiều dài 3-4 cm, thân rộng hơn 1 cm và bề dày 0,3-0,5 cm, dao đá, liềm đá. Chiếc liềm đá có công dụng quan trọng trong công việc gặt hái ngũ cốc, cắt cỏ, sự có mặt của liềm đá cho thấy tầm quan trọng của sản xuất thực phẩm ngày xưa (Viện Khảo Cổ Học, 1998).
Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có cưa đá, mũi khoan đá, bàn mài (bàn mài bằng, bàn mài rãnh, bàn mài trong), hòn kê, hòn đập, bàn đập.
Hình 1: Di vật văn hóa Phùng Nguyên
Hình 2: Đồ đá văn hóa Phùng Nguyên
1,2: Mũi tên; 3,4: Đục; 5,6: Rìu bôn; 7: cưa;
8: hạt chuỗi; 9: khuyên tai; 10-17: vòng tay (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Hơn 50 địa điểm tìm được với nền văn hóa Phùng Nguyên cho thấy những làng định cư lâu dài có đời sống nông nghiệp dùng rìu cuốc đá, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và đánh cá. Sự phát hiện lưỡi liềm đá ở Gò Bông và nhiều chiếc rìu nhỏ; cho thấy có nền nông nghiệp trồng lúa phát triển ở ruộng nước và trên đất cao (rẫy). Ngoài ra, còn có các đồ đựng bằng gốm có kích thước lớn để tồn trữ ngũ cốc cho thấy cư dân Phùng Nguyên có đời sống định cư lâu dài.
Các nhà khảo cổ cũng tìm được các tượng động vật như tượng đầu gà ở Xóm Rền làm bằng gốm. Các ngôi mộ khai quật còn tìm thấy hàm lợn ở Lũng Hòa, xương chó ở Tràng Kênh cho biết người Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi nhiều thú vật mà ta có ngày nay.
Trong nền văn hóa Phùng Nguyên còn xuất hiện kim loại đồng và kỹ thuật luyện kim: hợp kim đồng thau gồm có đồng và thiếc, được gọi “sơ kỳ đồ đồng”. Một mảnh vòng hay dây kim loại được tìm thấy ở Bãi Tự, Tiên Sơn (Bắc Ninh) (Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn, 1970), dây chì (Diệp Đình Hòa, 1978). Nền văn hóa Phùng Nguyên mở đầu cho thời đại đồng thau Việt Nam và chuẩn bị cho quá trình hình thành nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, khởi đầu của nhà nước và dân tộc Việt Nam ngày nay.
2.2. Nền văn hóa Đồng Đậu (cách nay 3.500 - 3.000 năm)
Các di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, Tỉnh Vĩnh Phúc được phát hiện vào năm 1962. Đây là nền văn hóa nối tiếp Phùng Nguyên, có đời sống tiến bộ hơn, xuất hiện từ 1.500 đến 1.000 năm tr CN. Đặc tính của nền văn hóa Đồng Đậu là kỹ nghệ luyện kim và chế tạo đồ đồng thau, chẳng hạn mũi tên, mũi nhọn bằng đồng thau đẹp và cân đối (3 và 4), được gọi là “trung kỳ đồ đồng”. Ở hầu hết các di tích Đồng Đậu như Đồng Đậu, Đồng Dền, Đông Lâm, Đồi Đá đều tìm thấy khuôn đúc và nồi rót đồng. Rìu đồng cũng khá phổ biến được xếp làm 3 loại: rìu hình chữ nhựt, rìu có vai và loại rìu có lưỡi hơi lệch. Ngoài ra, còn tìm thấy giáo đồng, mũi tên, lưỡi câu đồng, dũa đồng, búa đồng (Hình 3 và 4); trong khi các nhà khảo cổ còn tìm thấy công cụ đồ đá chiếm vị trí đáng kể: rìu đá, đục bằng đá, giáo đá, lao đá và các di vật đá dùng trong trang điểm: vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi.
Kỹ thuật luyện đúc đồng đã tiến bộ vượt bực, cung cấp các dụng cụ mới hiệu quả hơn như: mũi rìu giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, so với các dụng cụ bằng đá. Người Đồng Đậu còn dùng đồng thau để chế tạo khuôn đúc đồng, đồ se sợi, chạc gốm và nặn các tượng động vật như tượng bò, tượng gà, tượng rùa… Các tượng này cho biết những con thú đó là nguồn thực phẩm chính cho sự tồn tại và phát triển của cư dân Đồng Đậu.
Hình 3: Đồ đồng văn hóa Đồng Đậu
Hình 4: Di vật văn hóa Đồng Đậu
Đồ đồng: 1: Rìu; 2,3: giáo; 4,5: mũi tên; 6: đủa;
7: mũi nhọn; 8: cán (?); 9-11: phác vật lưỡi câu và lưỡi câu;
Đồ xương: 12: mũi tên; 13: lao có ngạnh; 14: khuyên tai 4 mấu; 15: tượng gà; 16: tượng bò; 17-19: nồi, bát; 20-22: hoa văn trang trí (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đến nền văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ khẳng định cư dân Đồng Đậu là cư dân nông nghiệp, làm ruộng khô, ruộng nước, trồng cây có củ, quả xung quanh nơi cư trú. Ở địa điểm Đồng Đậu, độ sâu 3,40 m, các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều than tro và nhiều hạt gạo cháy, có niên đại 3050 ± 100 năm cách ngày nay (Hình 5) (Viện Khảo Cổ Học, 1999); điều đó cho biết lúa gạo là nguồn thức ăn của cư dân Đồng Đậu. Đây là lần đầu tiên tìm thấy dấu vết của cây lúa trong thời cổ đại ở Việt Nam. Các nhà khảo cổ còn tìm thấy các hạt lúa có hình dạng khác nhau ở Gò Mun có tuổi carbon cách nay độ 3.120 (±100 năm) (Sakurai, 1987). Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng), họ còn phát hiện nhiều phấn hoa của một giống lúa nước, có niên đại 3.405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).
Những bào tử phấn hoa, hạt gạo cháy, vỏ trấu được tìm thấy ở các di chỉ Đồng Đậu chứng tỏ có nhiều loài thảo mộc hiện diện, gồm có khoai lang, rau muống, họ Cam (cây trám), họ na (cây na) và họ Hòa Thảo như cây tre, cây lúa (Oryza sativa) thuộc loại lúa nếp và lúa tẻ có hạt bầu và tròn (Trần Đạt và Đinh Văn Thuận, 1984). Một nghiên cứu về hạt gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu đã báo cáo: “10 hạt thon dài thuộc lúa tẻ… một số hạt thuộc dạng bầu dài giống như lúa nếp nương…Ở độ sâu 1,2-1,5 m thấy chủ yếu là hạt thon ngắn cũng thuộc lúa tẻ (?). Trong các lớp này có hạt tròn dài (nếp) và tròn ngắn (di, cút). Trong lớp Đồng Đậu muộn (sâu 1,2-1,0 m) ngoài các hạt thon dài và thon ngắn (tẻ) có hai hạt bầu ngắn, và tròn dài là lúa nếp.” (Đào Thế Tuấn, 1988). Công việc phân loại lúa tẻ, lúa nếp dựa vào quan sát hình dạng dài ngắn, tròn thon không được chính xác lắm, nhứt là các hạt gạo này bị cháy nám. Chẳng hạn, hạt gạo thon dài chưa hẳn là lúa tẻ vì có nhiều loại nếp cũng có hình dáng thon dài.
Ngoài nghề nông nghiệp, họ còn hái lượm và săn bắt, đặc biệt đối với cư dân sống trên các gò đồi cao. Ngoài những xương tìm thấy từ chó, lợn, gà chăn nuôi, họ còn săn bắt các loại thú hoang: trâu, bò, lợn, hươu, nai, voi trên rừng và bắt tôm cua, cá, ốc, rùa… ở những đầm hồ, suối nước chung quanh khu cư trú. Trong giai đoạn này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của nhà ở của cư dân, với nhiều nền đất vàng nén chặt, trên đó có những lỗ cột, nhưng những ngôi nhà đơn giản hơn nền văn hóa Đông Sơn sau này, với mái bằng rơm hoặc lá cây, xung quanh có những tấm phên che mưa gió. Người Đồng Đậu còn biết dệt vải, đan lát, đồ dùng bằng mây, tre, những thảo mộc thiên nhiên phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Nghề đan lát của Đồng Đậu rất tinh tế, đều đặn và đẹp. Cách đan cầu kỳ và cân đối để tạo ra các vật dụng chứa đựng ngũ cốc, phơi đồ gốm…(Viện Khảo Cổ Học, 1999).
Hình 5: Hạt gạo cháy vào thời kỳ văn hóa Đồng Đậu
(3.000-3.500 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)
2.3. Nền văn hóa Gò Mun (cách nay 3.100 – 2.800 năm)
Di tích Gò Mun được tìm thấy ở xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ vào năm 1961. Nền văn hóa Gò Mun ra đời sau nền văn hóa Đồng Đậu và trước nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng sau này. Những di tích thuộc văn hóa Gò Mun được phân bố ở trên đồi, gò thấp gần sông suối, đầm hồ. Dấu vết nền nhà trên đất vàng, nện chặt, dày độ 0,20 cm và những hố đất đen ăn sâu xuống, chứng minh cư dân sống trong những ngôi nhà thấp như từng thấy trong nền văn hóa Đồng Đậu, với mái lá hoặc rơm và xung quanh có phên che, đan bằng tre hoặc vách rơm rạ. Một đặc điểm đáng chú ý của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung vào một số khu vực, có lẽ do dân số gia tăng, khác với cư dân Đồng Đậu và Phùng Nguyên.
Địa tầng văn hóa của Gò Mun dày độ 1 m, màu đen, chứa nhiều di vật, công cụ lao động, thức ăn, nhà cửa đổ nát, nền nhà, nhà bếp, lò, mộ táng. Người ta cũng tìm thấy những hầm, hố đất đen có thể là những hầm ngũ cốc, hố rác bếp…
Đặc tính nổi nhất của Gò Mun là những công cụ và dụng cụ sinh hoạt của người Gò Mun thuộc đồ gốm, đồ đồng và đồ đá với hình dạng, nghệ thuật trang trí đặc biệt có một phong cách riêng của nền văn hóa này và dễ nhận dạng. Đồ gốm Gò Mun có hình dáng bên ngoài đặc biệt là kiểu miệng gốm và cách trang trí hoa văn (khắc vạch, in, đập và đắp nổi).
Về đồ đồng, kỹ thuật đúc luyện, pha trộn nguyên liệu và sáng tạo nhiều hình công cụ như rìu, giáo, lao, mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dũa, liềm, tượng người, lục lạc, vòng tay, trâm cài, hoa tai, nhẫn… Cần lưu ý đến liềm đồng dùng để cắt lúa hữu hiệu và nhanh hơn các lưỡi liềm bằng đá. Nhờ hỗn hợp kim loại tốt, những đồ đồng của Gò Mun tìm thấy được ít bị rỉ sét, bền, ít bị sứt mẻ (Hình 6). Đây là “hậu thời đồ đồng”.
Về đồ đá, các công cụ sản xuất và một số đồ dùng vẫn còn quan trọng trong nền văn hóa Gò Mun, như rìu hình tứ giác, rìu có vai, rìu có nấc, đục, bàn mài đủ loại, trong đó có chiếc rìu được khoan lỗ để luồn dây, chì lưới, khuôn để đúc, vòng tay, khuyên tai bằng đá. Người Gò Mun biết áp dụng kỹ thuật cưa, khoan, mài, tiện khá thành thạo.
Hình 6: Di vật văn hóa Gò Mun
Đồ đồng: 1-2: Rìu; 3: giáo; 4: lao; 5-6: mũi tên; 7: liềm
Đồ đá: 8: Khuyên tai 4 mấu; 9-10: Vòng tay, đồ gốm;
11-16: bát, bình, chậu; 17: chân chạc (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Cuộc sống của người Gò Mun tiến bộ hơn người văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu, có sắc thái riêng biệt vào tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của nền văn hóa Đông Sơn. Đặc tính của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung từng khu vực, chủ yếu với nền nông nghiệp lúa nước và lúa rẫy, hiệu năng kinh tế cao hơn nhờ các công cụ sản xuất bằng đồng để phục vụ nông nghiệp. Sự tiến hóa từ nông nghiệp sơ khai phát hiện từ văn hóa Bắc Sơn với các bộ lạc trồng lúa, đã hiện ra nét rõ rệt sinh hoạt trong nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun.
Trong nền văn hóa Gò Mun, người ta phát hiện một hầm ngũ cốc thối nát, chứng tỏ, chủ nhân của hầm này sản xuất lúa không những đủ nuôi gia đình họ mà còn dư thừa chứa trong hầm dự trữ (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Cư dân Gò Mun đã rành nghề nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa cùng các hoa màu khác ở ven sườn đồi, gò đất thấp chung quanh khu vực cư trú, bên bờ các dòng sông, bờ hồ, các đầm lầy với đất phù sa bồi đắp hàng năm. Người Gò Mun trồng lúa theo phương pháp quãng canh trên một diện tích rộng lớn, giống như trồng lúa nổi ở miền Nam, nghĩa là gieo hạt lúa lúc trời bắt đầu mưa, cây lúa lớn dần theo mực nước và thu hoạch lúc lúa chín.
Về chăn nuôi cũng khá tiến bộ để có thêm nguồn thực phẩm. Trong số di vật xương của các loài thú như lợn, gà, chó, trâu, bò, voi… có loại hoang dại và cũng có loại thuần dưỡng. Dù chưa có bằng chứng cư dân dùng trâu bò trong việc làm đất, nhưng cũng có ý kiến cho rằng họ dùng trâu bò để quần thục ruộng nước, kéo gỗ làm nhà…
Tóm lại, trong thời kỳ này nền nông nghiệp chủ yếu dùng cuốc so với thời đại nguyên thủy chủ yếu dùng rìu, bôn. Ngoài nghề lúa rẫy, cư dân đã có nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước khi mực nước biển lùi dần. Người dân Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun tiến từ đất cao xuống các thung lũng và trồng lúa từ đồi núi xuống vùng trũng thấp, ven sông rạch. Họ cũng biết dùng đến trâu bò trong nông nghiệp cách nay khoảng 4.500-3.000 năm; nhưng săn bắt hái lượm vẫn còn phổ biến với các công cụ sản xuất và thu hoạch bằng đá hoặc bằng đồng.
3. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TRỒNG LÚA NƯỚC
Trong thời Cổ Đại cách nay khoảng 4.000 năm, nghề trồng lúa nước ngày càng bành trướng lớn mạnh, có thể chia làm 2 giai đoạn: thời kỳ tiền bán và hậu bán thời đại Hùng Vương. Trong nửa trước thời đại Hùng Vương, người Văn Lang trồng lúa nước sơ kỳ song song với trồng lúa rẫy khi nước biển rút dần; nhưng nghề lúa rẫy vẫn còn chiếm ưu thế. Đến văn hóa Gò Mun, với phát triển công cụ sản xuất đồng thau, nghề trồng lúa nước đã vượt lên ngang hàng hoặc hơn ngành lúa rẫy. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện một hầm lúa thối nát, chứng tỏ chủ nhân sản xuất dư thừa, gia đình cư dân no ấm. Ngành trồng lúa nước càng phát triển mạnh đời sống người Văn Lang thêm phồn thịnh sung túc. Nền văn hóa Đông Sơn và văn minh Lúa Nước xuất hiện gần đồng bộ từ đó.
3. 1. Nền Văn Hóa Đông Sơn (cách nay 2.800 - 1.800 năm)
Nền văn hóa Đông Sơn là sự tiếp nối với văn hóa Gò Mun và kéo dài khoảng 1.000 năm (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
Di tích Đông Sơn được khai quật vào năm 1924 bởi ông L. Pajot. Di tích này thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Nền văn hóa này bao gồm các tỉnh miền núi, đồng bằng và ven biển của Miền Bắc đến Quảng Bình, nhưng địa bàn gốc là đồng bằng và trung du của Miền Bắc (vùng sông Hồng) và vùng bắc Trung Phần (vùng sông Mã). Nền văn hóa Đông Sơn đã phát triển lâu dài từ thế kỷ VIII-VII tr CN (khởi đầu triều đại Hùng Vương) đến thế kỷ I - II sau CN. Các di tích tìm thấy ở nhiều địa điểm, nhưng thường phân bố trên các vùng đất cao, các chân đồi, ven sông và ven suối. Tầng văn hóa trung bình dày 0,60-1,00 m. Ngoài các di chỉ cư trú riêng biệt, còn có loại di tích hỗn hợp của cả di chỉ cư trú và khu mộ táng.
Các đặc tính của nền văn hóa Đông Sơn được tìm thấy ở các loại đồ đồng, đồ sắt, đồ đá, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ xương và đồ tre gỗ. Đồ đồng chiếm một số lượng lớn, đặc biệt công cụ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp lúa.
Đồ đồng: Nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng nhứt là bộ đồ đồng rất phong phú về số lượng, hình dạng, trình độ kỹ thuật chế tạo và năng khiếu thẩm mỹ của người dân. Nhạc cụ của nền văn hóa này nổi bật nhứt là trống đồng và chuông. Trống đồng (Hình 7) là loại di vật điển hình của nền văn hóa Đông Sơn, nay gọi là trống Đông Sơn. Đến nay đã phát hiện khoảng 150 trống lớn và gần 100 trống minh khí ở miền Bắc khu vực văn hóa Đông Sơn và các nơi khác ở Việt Nam như Thừa Thiên - Huế, Gia Rai - Kontum, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Kiên Giang... Trống Đông Sơn có địa bàn phân phối rộng không những ở Việt Nam, còn tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và miền nam Trung Quốc, chứng tỏ Việt Nam có giao lưu thương mại khá rộng lớn lúc bấy giờ. Trống đồng được các nhà khảo cổ học phân ra 5 loại A,B,C,D và Đ, căn cứ vào kích thước, dáng cân đối và hoa văn. Ngoài ra, còn vũ khí, công cụ sản xuất và đồ trang sức bằng đồng.
Nhóm công cụ sản xuất bằng đồng thau của văn hóa Đông Sơn khá phong phú, trong đó rìu chiếm một số lượng quan trọng (Hình 7 và 9) (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
· Rìu: Đặc điểm chung là rìu có họng để tra cán, gồm có 2 loại rìu cân xứng và rìu không cân xứng: rìu xéo (không cân xứng), rìu hình hia gót tròn, gót vuông, rìu xoè cân, rìu có vai.
· Lưỡi cày đồng tiêu biểu cho ngành nông nghiệp. Cho tới nay có gần 200 hiện vật, gồm có 4 loại: lưỡi cày hình tam giác (còn hiếm), lưỡi cày hình tim (nhiều nhứt chiếm 50%), lưỡi cày hình cánh bướm hay chân vịt và lưỡi cày có vai ngang hay vai nhọn (ít) (Hình .
· Cuốc đồng: Chiếc cuốc lớn ở Bãi Phủ (Đông Hà, Thanh Hoá) có kích thước: dài 16,5 cm, rộng 11,7 cm. Kiểu cuốc hình chữ U tùy theo cách lắp cán với lưỡi hình cung hoặc hình tam giác. Kiểu cuốc có vai và phần họng tra cán ăn sâu xuống lưỡi. Kiểu cuốc có họng tra cán, lưỡi gồm có hình tam giác, hoặc lưỡi hình cung.
· Xẻng: công cụ này được phát hiện còn rất ít. Họng xẻng có cấu tạo giống như họng lưỡi cày hình tim. Có xẻng không có họng mà liền với lưỡi thành một khối.
· Nhóm thuổng hay mai thường được xếp vào nhóm rìu có vai cân xứng, nhưng chắc và khoẻ hơn lưỡi rìu, rất thích hợp cho đào đất hay dầm đất.
· Nhóm công cụ thu hoạch: Gồm có lưỡi dao gặt hay còn gọi là nhíp, thường được dùng để gặt lúa.
· Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có nhóm dùi, đục, dũa, lưỡi câu, kim, đinh ba, đinh hai, móc, dao, dao khắc.
Đa số các công cụ sản xuất này cho biết ngành nông nghiệp lúa đã tiến bộ nhiều trong thời đại Đông Sơn. Cư dân Việt đã tích tụ được nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước, biết dùng cuốc cày bằng đồng và sắt để nâng hiệu năng sản xuất, biết dùng trâu để thay thế phần nào sức lao động, có nhà kho chứa thóc và biết giã gạo (hoa văn trống đồng) thay vì dùng bàn nghiền vì sản xuất lúa đã quá nhiều.
Ngoài ra, đồ đồng còn là đồ dùng sinh hoạt (thạp, thố, bình, khai, đĩa, chậu…), đồ trang sức (vòng tai, vòng tay, trâm cài, khóa thắt lưng, tượng đồng…), vũ khí (giáo, lao, mũi tên, dao găm), nhạc cụ và tượng đồng.
Hình 7: Trống đồng Đông Sơn (2500-3000 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)
Hình 8: Lưỡi cày bằng đồng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn
(2.500-3.000 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)
Hình 9: Đồ đồng văn hóa Đông Sơn
1: Rìu bôn; 2: rìu hình chữ nhựt; 3-8: rìu xoè cân;
9: rìu xéo hình thuyền; 10,11: rìu xéo hình dao xén;
12,13: rìu xéo gót vuông; 14,15: đục; 16: dùi;
17: lưỡi câu; 18: nhíp; 19: dũa; 20: cuốc chữ U;
21: xẻng; 22: thuổng; 23: lưỡi cày (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn là công cụ và vũ khí. Công cụ sản xuất gồm lưỡi cuốc chiếm số lượng nhiều nhứt. Lưỡi cuốc là công cụ làm đất, gồm có 2 loại: kiểu lưỡi cuốc có vai, có họng tra cán gần hình chữ nhựt, và kiểu cuốc có họng tra cán hình chữ U, lưỡi xoè rộng hình cung. Ngoài ra, còn có rìu để chặt cây, liềm dùng thu hoạch. Ở Gò ChiềnVậy, mẫu than để xác định niên đại nằm sâu dưới lớp đất có cuốc sắt có niên đại 2.350+100 cách ngày nay (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đồ đá gồm có hai nhóm công cụ sản xuất và đồ trang sức (vòng tay, vòng tai). Số lượng công cụ sản xuất còn rất ít, chủ yếu rìu (rìu tứ giác và rìu có vai), bôn. Ngoài ra, còn có hòn kê, hòn ghè, cối, chày, bàn mài với các kiểu gần giống như thời kỳ tiền Đông Sơn.
Ngoài ra, còn có đồ thủy tinh được tìm thấy trong các ngôi mộ niên đại muộn, như hạt chuổi màu xanh, vòng tai, vòng tay có màu xanh thẫm; và các đồ gốm như bình, chõ, chậu, bát, chì lưới, dọi xe; đồ xương; và đồ tre gỗ.
3.2. Nền văn minh lúa nước
Thời đại Hùng Vương khởi sự từ các giai đoạn phát triển sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, nghĩa là từ thiên kỷ II đến thế kỷ III trước CN (khoảng 4.000-2.258 năm), và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để tiến đến nền văn minh cổ xưa và một nước mới thành lập của dân tộc Việt. Tuy nhiên, lịch sử đến nay ghi nhận triều đại Hùng Vương chỉ có 18 đời Vua (khoảng từ 700 đến 258 năm tr. CN).
● Địa lý và tổ chức xã hội sơ lược: Nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương gồm có vùng Bắc Việt, bắc Trung Việt và một phần phía nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000 và Văn Tấn và cộng sự viên, 2008). Nước có 15 bộ (bộ lạc cũ) và có tổ chức xã hội tương đối rõ rệt như Lạc Vương (vua), Lạc Hầu (văn), Lạc Tướng (võ), Quan Lang (con trai vua), Mỵ Nương (con gái vua), Bố Chính (quan lại), ở làng mạc có chế độ tù trưởng và mỗi gia đình có chế độ gia tộc, gia trưởng. Người dân gọi là Lạc Dân.
● Nghề nông nghiệp lúa: Vào thời đại Hùng Vương, qua nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun, nước Văn Lang có 3 loại ruộng: ruộng đất cao hay nương rẫy, ruộng thung lũng và ruộng phù sa ven sông rạch (đồng bằng); trong đó ruộng phù sa ngày càng phổ biến vì cho năng suất cao hơn. Nông dân vẫn tiếp tục làm nương rẫy truyền thống từ thời tiền sử cho đến khi nước biển lùi dần, họ từ các ruộng cao theo dòng nước tràn xuống khai thác các thung lũng, đầm lầy có nước quanh năm để trồng lúa. Cư dân dùng phương pháp “thủy nậu” để cấy lúa, nghĩa là họ dùng chân giẫm cỏ xuống bùn trước khi cấy. Lề lối thủy nậu còn được thực hành ở các ruộng biền sâu ở đồng bằng sông Cửu Long dưới thời Pháp thuộc. Sau cùng, họ đến định cư ở các vùng đất cao ven sông rạch, biển và khai phá rừng rậm để trồng trọt sinh sống. Nghề nông trồng lúa nước phát triển từ đó.
Ngoài ra, cư dân còn canh tác một số hoa màu khác như khoai, đậu, dưa hấu, dâu tầm, trầu cau..., xen kẻ với nghề chăn nuôi, đánh cá, săn bắn, nghề gốm, nghề luyện kim, thủ công nghệ khác... Ngành nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhanh hơn vào thời đại này, mặc dù đòi hỏi nhiều sức lao động so với nghề nương rẫy. Đó là nhờ cư dân Việt sớm biết chăn nuôi, sử dụng sức kéo trâu bò từ nền văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, có kinh nghiệm về thủy triều lên xuống, về khí hậu hai mùa mưa nắng mỗi năm, và đặc biệt xuất hiện các công cụ sản xuất bằng kim loại.
● Nghề trồng lúa nước ngày càng trở nên quan trọng vì lúa nước cho năng suất cao gấp 2,3 lần lúa rẫy, đảm bảo thời kỳ thu hoạch nhiều hơn nhờ yếu tố nước để đáp ứng áp lực dân số gia tăng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu với nền văn hóa Phùng Nguyên, dụng cụ sản xuất bằng đá vẫn còn chiếm vị thế quan trọng, chứng minh nghề trồng lúa còn thô sơ của người Việt cổ trong những tháng ngày mới lập quốc. Nông dân đã làm quen với trồng lúa theo mực nước sông lên xuống, lúa gạo là thức ăn căn bản của dân tộc Việt bấy giờ. Sự kiện này được thể hiện qua truyền thuyết như sau:
“Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (bột báng), cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối (?); lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ-lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.” “Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng”, “…phát nương đổ rẫy. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp”. (Lĩnh Nam Chích Quái, 1960).
Trong sơ kỳ thời đại Hùng Vương, cư dân trồng lúa nước theo lề lối du canh lâu đời của lúa rẫy; nghĩa là họ vẫn dùng phương pháp sạ thẳng và sau ít năm khai thác, họ di chuyển tìm nơi khác trồng trọt vì ruộng đất cũ kém phì nhiêu, như còn thấy bộ lạc Bambara thực hành ở miền Tây Phi Châu (Guinea, Guinea-Bissau, Senegal...) đối với trồng lúa ngập mặn ven biển và sông rạch. Sau nhiều năm kinh nghiệm, họ biết lợi dụng thủy triều lên xuống để đem phù sa vào ruộng lúa và chăm sóc vụ mùa nhiều hơn; nên không còn thay đổi đất trồng nữa và các thữa ruộng trở nên cố định.
Đến hậu bán thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Đông Sơn, dân tộc Việt phần lớn sống ở những xóm làng tại các thung lũng đồng bằng, dọc theo sông rạch, bờ biển và nghề trồng lúa nước (nếp) phát triển mạnh trở nên phồn thinh. Họ đã biết sử dụng phương pháp cấy lúa để chủ động trồng trọt sau nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa với điều kiện nước lũ và khí hậu gió mùa mỗi năm. Công việc cấy lúa được nói đến trong Lĩnh Nam Chích Quái nêu trên và “Lạc Long Quân dạy dân cày cấy...”, “... lấy dao cày, lấy nước cấy”. Nhà khảo cổ học Maspéro (1918) nghiên cứu tài liệu Trung Quốc cho rằng dân tộc Lạc Việt biết làm lúa hai vụ, biết cấy lúa, làm thủy lợi... trước khi Hán tộc xâm lăng.
Phương pháp cấy lúa có khả năng giúp cho cây lúa có xác suất sinh tồn cao hơn gieo thẳng khi mực nước lên xuống, như từng thấy kinh nghiệm trồng lúa sạ (nổi) và lúa cấy một hoặc hai lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Vào thời kỳ này, những kinh nghiệm sống đã giúp cho nông dân hoàn hảo lề lối canh tác để sản xuất lương thực nhiều hơn. Từ cách gieo sạ thẳng nông dân đã chuyển qua phương pháp làm mạ vào đầu mùa mưa để cấy vào lúc ruộng ngập nước, chủ yếu giúp cây lúa cao, lớn có khả năng chịu đựng được mực nước sông dâng cao trong khí hậu gió mùa. Do đó, người Việt đã biết cấy lúa vào thời mới dựng nước, cách nay ít nhất 3.000 năm.
Ngành trồng lúa nước đã trở thành chủ lực của nền nông nghiệp bản xứ. Sử Trung Quốc ghi rằng: “Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận, huyện, ruộng đất có ruộng lạc, ruộng đó theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng mà ăn nên gọi là dân lạc” (Hình 10). Như thế, ruộng lúa này đã cố định, được đắp bờ đê ngăn giữ nước để trồng lúa. Chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh vào thời Hùng Vương có thể tượng trưng cho công tác đắp đập đê để ngăn ngừa lụt ở Miền Bắc. An Nam chí lược có ghi chép cư dân Văn Lang “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”. Hoặc vết tích một đoạn đê cổ của thành Cổ Loa trước thời Bắc thuộc cho người ta nghĩ rằng người dân tại một số vùng đã bắt đầu biết đắp bờ giữ nước, tháo nước bảo vệ cây lúa để tăng gia sản xuất. Căn cứ vào tư liệu Trung Quốc, nhà khảo cổ học Maspéro (1918) đã xác nhận dân tộc Văn Lang đã có một xã hội phát triển khá cao, họ biết làm lúa nước, làm thủy lợi... trước khi người Hán đến xâm lược.
Hình 10: Bút tích về ruộng lạc và hai vụ lúa ở Giao Chỉ (Ảnh: N. K. Quỳnh)
● Vụ lúa: Có lẽ dân tộc Việt vào hậu kỳ thời đại Hùng Vương đã biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm khi đã biết được giống “lúa Chiêm” của nước Chiêm Thành, vì giống lúa này có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, nhờ không chịu ảnh hưởng quang cảm (số giờ ánh sáng trong ngày). Mặc dù theo sử Trung Hoa, nước Chiêm Thành mới thành lập năm 192 sau CN, nhưng trước đó vùng đất này thuộc một trong 15 Bộ Tộc của nước Văn Lang, cho nên lúa Chiêm có thể được người Giao Chỉ biết đến truớc CN. Vụ Chiêm được trồng vào tháng 11-1 gặt tháng 5 trong khi lúa Mùa trồng tháng 6 gặt tháng 11. Trong Di vật chí có ghi: “Lúa Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông” (Hình 10). Ông Maspéro (1918) và Bùi Huy Đáp (1980) đã ghi nhận có lúa hai mùa ở đất Việt trước CN.
● Các loại lúa: Trong thời đại Hùng Vương có ít nhứt 3 loại lúa trồng ở 3 vùng sinh thái khác nhau: lúa rẫy trên đất cao, lúa thung lũng dưới chân đồi núi và lúa đất phù sa ở các đồng bằng, mỗi loại lúa này có 2 thứ lúa tẻ còn ít phổ biến và lúa nếp rất thông dụng của cư dân từ đồi núi xuống thung lũng và đồng bằng. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, vào thời Hùng Vương, “Đất sản xuất nhiều gạo nếp”. Ngoài ra còn có hai vụ lúa mỗi năm: vụ Chiêm và vụ Mùa, nên mỗi vụ có nhiều giống lúa khác nhau. Do đó, trong cuối thời đại Hùng Vương, Viêt Nam có trên trăm giống lúa được nông dân trồng. Ở di chỉ văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học tìm được nhiều hạt gạo cháy có hình dáng khác nhau cách nay khoảng 3.000 năm: hình bầu, tròn, dài, thon, thon dài, bầu dài, tròn ngắn... (Đào Thế Tuấn, 1988); cho biết nơi nầy cư dân trồng nhiều giống lúa khác nhau.
● Công cụ sản xuất(Hình 8 và 9 và xem thêm nền văn hóa Đông Sơn): Đến đầu thiên kỷ II trước CN, công cụ đá, chủ yếu rìu đá vẫn còn phổ biến rộng rãi trong nền văn hóa Phùng Nguyên dù kỹ thuật luyện kim đã bắt đầu. Đến giai đoạn Đồng Đậu và Gò Mun, các dụng cụ bằng đá được thay thế dần với dụng cụ đồng, thau, rồi công cụ sắt xuất hiện ở hậu kỳ thời đại Hùng Vương. Các chiếc rìu đá, rìu đồng được cư dân sử dụng. Nền nông nghệp của cư dân dùng rìu đá rồi rìu đồng chủ yếu để chặt cây, làm đất trồng trọt; mặc dù các nơi khác đã dùng cuốc đá từ lâu.
Càng về sau trong hậu kỳ thời đại Hùng Vương (cũng nằm trong nền văn hóa Đông Sơn), các nhà khảo cổ tìm thấy lưỡi cày đồng (Hình và cuốc, mai thuổng bằng sắt với số lượng lớn, trong khi các công cụ sản xuất bằng đá giảm dần. Các loại cày đồng với lưỡi hình tim và hình cánh bướm thông dụng hơn hết để cày ruộng. Các liềm đồng cũng được tìm thấy với số lượng khá lớn dùng để gặt lúa.
● Chăn nuôi: Cư dân đất Việt đã biết đến nghề chăn nuôi khá lâu. Trong di chỉ Đa Bút (khoảng 6.000-5.000 năm), các nhà khảo cổ tìm thấy xương trâu, lợn và suy đoán cư dân biết thuần dưỡng động vật (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Theo Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000), cư dân Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi vì trong các di chỉ và mộ táng có những xương răng chó, lợn, trâu, bò... Điều này chứng minh rằng người Việt biết dùng sức kéo của trâu bò để làm ruộng, biết cày cấy trước thời Bắc thuộc chứ không phải như đã ghi trong sử Trung Quốc (Hậu Hán Thư và trong Thủy Kinh Chú trong Bùi Thiết, 2000) cũng như các sách sử Việt viết theo tài liệu của Trung Hoa rằng Thái thú Nhậm Diên dạy dân Cửu Chân cày bừa. Có thể người Trung Hoa đem các chiếc cày, cuốc bằng sắt của họ vào xứ Giao Chỉ và Cửu Chân vào buổi đầu Bắc thuộc (Phạm Văn Sơn, 1960) giúp cho việc làm đất ruộng mau lẹ và cày sâu hơn. Tuy nhiên, dân tộc Việt đã biết sử dụng kim loại sắt vào thời buổi đầu lập quốc, với câu chuyện cổ tích Thánh Gióng vào đời vua Hùng Vương thứ ba, khoảng 700 năm trước CN.
●Ngoài ra, nghề đánh cá trong các sông rạch, ven biển đã xuất hiện từ nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn đến Phùng Nguyên và các nền văn hóa tiếp theo. Các nhà khảo cổ học tìm thấy vỏ sò ốc, xương cá, răng cá, chì lưới, lưỡi câu, mãnh gốm có hình cá... trong nhiều di chỉ khảo cổ khai quật. Trong thời hậu kỳ Hùng Vương, đặc biệt trong nền văn hóa Đông Sơn, nghề đánh cá lớn mạnh hơn, cư dân biết đóng những chiếc ghe, thuyền lớn để đi trên sông, biển, được ghi nhận trên các trống đồng Đông Sơn.
Trong giai đoạn hậu thời kỳ Đồng Thau đến thời đại Đồ Sắt, dân tộc Việt đã nắm vững một số phương pháp canh tác tiến bộ của ngành làm ruộng nước và làm nương rẫy (ở đất cao, đồi, núi), nhằm khai thác đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả ở Bắc Việt và Trung Việt. Đồng thời cư dân ở Miền Đông Nam Việt cũng biết trồng lúa rẫy ở đất cao và lúa nước ở đất thấp để sinh sống trong nền nông nghiệp dùng cuốc. Hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn còn hiện diện, nhưng đã trở thành thứ yếu, chỉ còn thấy ở các vùng đồi núi, rừng sâu.
Một cách tổng thể, trong thời đại Hùng Vương, ngành sản xuất lúa gạo của nước Văn Lang có 5 hiện tượng biến đổi lớn xảy ra, đưa đến nền văn minh lúa nước một thời rực rỡ, như sau:
1) Nền nông nghiệp dùng rìu trong thời tiền sử được chuyển qua nông nghiệp dùng cuốc cày;
2) Công cụ sản xuất bằng đồ đá mài chuyển qua công cụ sản xuất bằng đồng, thau và sắt;
3) Từ nghề làm nương rẫy du canh chuyển qua nghề trồng lúa nước cố định;
4) Từ trồng lúa gieo thẳng trong thời tiền sử chuyển qua cấy lúa trong thời đại Hùng Vương. (Bây giờ ngược lại, từ cấy lúa chuyển qua gieo thẳng); và
5) Cư dân di chuyển từ những vùng đất cao thưa thớt xuống sống tập trung làng ấp ở các thung lũng và nhứt là đồng bằng do hiện tượng biển lùi cuối cùng.
Sau đây là bảng tóm lược hoạt động sản xuất lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương (Bảng 1):
Bảng 1: Hoạt động sản xuất của ngành trồng lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương
Hoạt động sản xuất
|
Lúa rẫy
|
Lúa nước
|
Dẫn chứng
|
Vụ lúa
|
Một vụ vào mùa mưa
|
Một vụ Mùa vào mùa mưa. Vào đầu CN có thêm vụ Chiêm (hay Đông-xuân)
|
Di Vật Chí
|
Loại lúa
|
Lúa nếp
|
Lúa nếp chính và lúa tẻ còn ít
|
Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6 (khoảng 2.500 năm)
|
Làm đất
|
Chặt cây nhỏ, đốt cây (“đao canh hỏa chủng”)
|
- Đốt cỏ và ngâm ruộng (“hỏa canh thủy nậu”), giẫm chân chôn cỏ;
- Cày do trâu kéo hoặc sức người
|
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
- Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000)
- Viện Khảo Cổ Học (1998)
|
Gieo hạt
|
Chọc lỗ, gieo hạt và lắp đất
|
-Gieo hạt khi có vài đám mưa đầu mùa (gieo thẳng)
- Làm nương mạ cho cấy lúa
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Maspéro, 1918
|
Cấy
|
Không
|
Nhổ cây lúa ở nơi gieo sớm đem cấy vào nơi có nước sâu hơn do nước mưa hoặc do nước dâng lên từ sông rạch. Lúa cấy một hoặc hai, ba lần, nhằm giúp cây lúa chịu đựng mực nước sâu vào mùa mưa.
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Maspéro, 1918
|
Chăm sóc
|
Không hoặc ít khi
|
Nhổ cỏ khi cần
|
|
Dùng phân
|
Nhờ mức phì nhiêu của đất đai; do đó mỗi vài ba năm cư dân tìm đất mới để trồng (du canh)
|
- Để gốc mạ thối thành phân
- Đem nước phù sa sông vào ruộng
- Phân tằm, phân bắc, phân trâu, nếu có
|
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
- Văn Tân et al, 2008
- Trong Bùi Huy Đáp (1980)
|
Tưới nước
|
Nhờ nước trời
|
- Đắp bờ, đê, đập, đào mương đẫn nước ở những nơi có thể làm.
|
- Thủy Kinh Chú
- Bùi Huy Đáp (1980)
- Văn Tân et al, 2008
- Maspéro, 1918
|
Thu hoạch
|
Bằng tay, nhiếp, dao, lưỡi liềm đá, đồng
|
Dao hái, nhiếp, lưỡi liềm đồng, sắt
|
Viện khảo cổ học (1999)
|
Tồn trữ
|
Kho chứa, bồ lúa
|
Kho chứa, bồ lúa
|
Hoa văn trống đồng Đông Sơn
|
Biến chế lúa gạo, nếp
|
Cối và chày, bàn nghiền đá
|
Cối và chày
|
Hoa văn trống đồng Đông Sơn(Hình 11)
|
- Nấu cơm bằng ống tre
- Làm bánh chưng, bánh dày
- Nấu rượu
|
- Nấu cơm, xôi bằng nồi
- Làm bánh chưng, bánh dày
- Nấu rượu
|
- Lĩnh Nam Chích Quái
- Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6 (khoảng 2.500 năm AD)
- Lĩnh Nam Chích Quái
|
Hình 11: Hoa văn giã gạo trên trống đồng Đông Sơn (N. K. Quỳnh)
4. THỬ ƯỚC TÍNH NĂNG SUẤT VÀ DIỆN TÍCH TRỒNG LÚA VÀO THỜI CẬN CÔNG NGUYÊN
Đây chỉ là những ước tính sơ khởi để có được khái niệm về tình trạng trồng lúa trên đất Lạc Việt vào khoảng một vài thế kỷ trước và sau CN, dựa vào các con số ghi nhận trong các sử sách và kiến thức trồng lúa hiện nay. Dĩ nhiên, các số liệu ước tính sau đây cần được điều chỉnh lại với các thông tin phát hiện trong tương lai để được chính xác hơn.
Năng suất:Theo sách Đông Quan Hán Ký (trong Bùi Thiết, 2.000), khoảng thế kỷ thứ II tr. CN, ruộng ở quận Cửu Chân (vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh) có 156 gốc lúa cho 768 bông. Từ đó, chúng ta có thể suy tính năng suất khoảng 465 kg/ha[1], với giả thuyết như sau: (i) khoảng cách trồng ước độ 40 x 40 cm, (ii) mỗi bông lúa trung bình có 60 hạt và (iii) trọng lượng 1000 hạt là 25 gram. Nhưng đất Cửu Chân xấu hơn đồng bằng sông Hồng. Do đó, trong điều kiện bình thường, lúa Giao Chỉ vào buổi đầu Bắc Thuộc có năng suất bình quân ước lượng khoảng 500 kg/ha hoặc hơn (từ 500 đến 800 kg/ha)?
Diện tích: Theo sách Quảng Đông Tân Ngữ (trong Bùi Thiết, 2000), Giao Chỉ có dân số 746.237 người, vào đời nhà Hán mỗi năm phải nộp thuế đến 13.600.000 hộc lúa (1 hộc lúa = 10 đấu, 1 đấu gần bằng 1kg). Từ đó, có thể suy tính như sau: Vì chế độ cai trị hà khắc, bóc lột của người Hán, thuế khóa rất nặng độ 70 - 80% số lượng sản xuất của dân Giao Chỉ, với 2 vụ lúa mỗi năm: vụ tháng 5 và vụ tháng 10 âm lịch. Cho nên, sản lượng thu hoạch của họ có thể ước tính độ 16.320.000 hộc lúa hay độ 163.200.000 kg lúa. Nếu năng suất bình quân độ 500 kg/ha, có thể suy ra dân Giao Chỉ lúc bấy giờ trồng 326.400 ha mỗi năm (2 vụ) hay diện tích đất ruộng độ 163.200 ha hoặc ít hơn (tùy theo năng suất)?
5. KẾT LUẬN
Tóm lại, ngành trồng lúa Việt Nam đã tiến hóa lâu dài, chậm chạp theo trình độ văn minh của dân tộc. Từ thời người Vượn cho đến 11.000 năm trước, thời nguyên thủy, con người chỉ biết săn bắt và hái lượm, chủ yếu cây có củ, đậu và cây ăn trái để sinh tồn và hòa đồng với thiên nhiên. Cho đến văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), nền nông nghiệp sơ khai mới xuất hiện và cư dân bắt đầu hái lượm từng hạt lúa hoang ở các đầm lầy, gò đất cao và biết gỡ vỏ lúa để lấy hạt gạo có thêm lương thực. Đến thời kỳ văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút (6.000-5.000 năm), cư dân đất Việt đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trồng lúa để làm thế nào sản xuất nhiều thóc gạo. Họ đã bắt đầu thuần dưỡng cây lúa dại, lấy hạt lúa gieo trồng gần nơi cư trú, thường là rẫy nương hoặc thung lũng, đầm lầy. Các Bộ lạc trồng lúa xuất hiện trong thời kỳ này, đánh dấu sự thay đổi lớn, ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn minh cư dân Việt sau này, vì nghề trồng lúa đã tạo nên đời sống ổn định hơn. Sau đó sự xuất hiện các loại kim khí như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các phương tiện sản xuất hữu hiệu làm tăng sản phẩm và cải tiến năng suất để bảo đảm lương thực, đặc biệt vào thời kỳ dựng nước của Hùng Vương và An Dương Vương; tạo ra nền văn minh lúa nước rực rỡ và văn minh Đông Sơn sáng ngời.
Thời Đại Hùng Vương
(4.000-2.258 năm cách ngày nay)
Do thành tựu khảo cổ học, thời đại Hùng Vương khởi sự từ sơ kỳ thời đại Đồng Thau đến sơ kỳ thời đại Sắt cách nay khoảng 4.000 đến 2.258 năm, và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để hình thành một nền văn minh xưa và một nước cổ sơ của người Văn Lang. Tuy nhiên, lịch sử đến nay chỉ ghi được thời đại này chỉ có 18 đời Vua mà thôi (khoảng 700 năm tr. CN). Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. Ngưòi Việt cổ của thời Hùng Vương có nguồn gốc đa tộc, mà hạt nhân của cộng đồng là người Tày cổ với sự tham gia của các nhóm tộc khác như Malayô, Môn-Kkmer...(Viện Khảo cổ học, 1999 và 2002).
- Địa lý và xã hội: Nước Văn Lang của các đời vua Hùng gồm có vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ của nước ta ngày nay và một phần phía nam của Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung Quốc và có 15 bộ (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000):
- Văn Lang (Bạch Hạt, Vĩnh Yên),
- Châu Diên (Sơn Tây),
- Phúc Lộc (Sơn Tây),
- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),
- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),
- Vũ Ninh (Bắc Ninh),
- Lục Hải (Lạng Sơn),
- Ninh Hải (Quảng Yên),
- Dương Tuyền (Hải Dương),
- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),
- Cửu Chân (Thanh Hóa),
- Hoài Hoan (Nghệ An),
- Cửu Dương (Hà Tỉnh),
- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị),
- Bình Văn (?).
Đời sống kinh tế và văn hóa của tộc Lạc Việt vào thời Hùng Vương - An Dương Vương được mô tả như sau:
-“Đời sống kinh tế: Hoạt động chính của cư dân là săn bắt và hái lượm, nhưng nghề nông và chài lưới có những bước tiến đáng kể. Nghề nông chính là nghề trồng lúa nước ở các vùng trũng ven sông rạch và lúa rẫy trên đất cao, đồi núi; ngoài ra họ còn trồng rau củ, trầu cau, dưa hấu (sử tích), khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm. Vua Hùng mỗi năm lên núi khấn vái, cầu trời cho được mùa lúa tốt; núi này về sau gọi là núi Hùng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú. Về nghề chài lưới, ngư dân có tục xâm mình để tránh những loài cá dữ như cá sấu, thuồn luồn. Tục lệ này kéo dài đến vua Trần Anh Tông (1293-1314) mớt dứt. Ngoài ra, họ còn có nghề luyện đồng thau, đúc nên những chiếc trống đồng khéo léo, nghề luyện sắt (di tích Gò Chiền Vậy) và nghề gốm.
- Đời sống văn hóa: Cư dân đời Hùng đã sống trên các nhà sàn, nhưng hãy còn thô sơ ở ven đồi, gò cao, chân núi; với nguyên liệu gỗ, tre, nứa, lá. Nhà có mái cong hình thuyền hoặc mái tròn và sàn thấp, đuôi mái sát đến sàn nhà. Cầu thang lên đặt trước nhà. Đầu tóc cắt ngắn ngang vai hay búi tóc lên đầu, chít khăn búi tóc cho nữ, hoặc búi đuôi sam và có vành khăn nằm ngang trán cho phụ nữ. Cách ăn mặc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Nữ mặc váy, thân để trần, đi chân đất. Nam ở trần, mặc khố, đi chân đất. Trang phục lễ cho cả nam và nữ gồm có váy kết bằng lá hay lông vũ. Mũ kết bằng lông chim có cắm thêm bông lau ở phía trên hay phía trước (di tích trên trống đồng). Đồ trang sức của cả nam lẫn nữ gồm có vòng đeo tai, nhẫn, hạt chuỗi, vòng đeo tay.
Về thời đại Hùng Vương - An Dương Vương có rất nhiều truyền thuyết thần thoại được truyền miệng trong dân gian từ đời này đến đời khác mãi đến ngày nay, giúp cho ta hình dung phần nào đời sống của dân Lạc Việt. Đó là truyện Trầu Cau về tục lệ ăn trầu. Truyện Bánh Chưng Bánh Dày giải thích quan niệm trời tròn đất vuông cùng lễ lộc cúng tổ tiên vào ngày Tết. Truyện An Tiêm cho thấy con người biết trồng trọt. Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh cho thấy con người phải sống vất vả với nước lụt hàng năm ở quanh núi, nơi họ sinh sống và biết đắp đê đập. Mối tình thơ mộng của Tiên Dung và Chử Đồng Tử được thể hiện bằng hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng nói lên tinh thần yêu nước của người dân khi có ngoại xâm và dân Lạc Việt biết sản xuất đồ sắt.”
|
Trần Văn Đạt, Ph. D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
- Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
- Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
- Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
- Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
- Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
- Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
- Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
- Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
- Văn Tấn, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.
- Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
- Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.
- Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.
- Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
[1] Với giả thuyết trên, 156 gốc lúa có 768 gié, 46.080 hạt, nặng 1152 gram, được trồng trên 24,76 m2 (hay 63.001 gốc/ha = 251x251). Cho nên, năng suất của lúa Cửu Chân là (1152 : 24,76) x 10.000 m2 = 465.267 gram hay 465 kg/ha.
Trở lại Trang Khoa Học