MỤC LỤC |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lên mạng ngày 8/12/2010
Thử tìm hiểu, áp dụng một mô hình phát triển văn hóa văn minh Á châu khác, giảm bớt nguy cơ tương lai Việt Nam bị Hán Hóa, mất gốc, mất nước chăng ? :
Biết rõ hơn đôi chút các bài học lịch sử văn hóa văn minh Nhật trước năm 2000
G S Tôn Thất Trình
Các nhà học giả Trung Hoa hay Nhật Bổn thường không chú ý đến sự phân ngành tập quán Tây phương, cùng lúc là học giả, triết gia, nghệ sĩ, thi sĩ, “ ông đồ ”viết chữ đẹp, tùy bút - tiểu luận và thường là sử gia nữa. Họ ít khi quan niệm văn hóa họ là một đơn vị , cũng như không bao giờ tưởng tượng văn hóa là một điều gì khác. Cảm tưởng này của họ thấm xuống đến tận dân gian thông thường. Cho nên văn hóa theo họ , dù chỉ là dạng phát họa đại cương phải được nghiên cứu xuyên qua mọi ngõ ngách của nghệ thuật, tôn giáo, đời sống kinh tế và xã hội cũng như mọi ngõ ngách cỗ điễn ở phương Tây, tỉ như sử học quân sự và chánh trị. Các sự cố bên ngoài lịch sử Nhật phải được nhìn dưới con mắt cả hai thái độ và lập trường của các diễn viên chủ yếu lẫn thường dân, họa may mới nắm vững nhãn quan thật sự và tròn trĩnh hơn của toàn thể. Như thế chúng ta mới hiểu được đà sáng tạo đáng kinh ngạc thúc đẩy nhiệt tình dân Nhật, suốt lịch sữ lâu dài Nhật đến cuối thế kỷ thứ 20, và bất thình lình phóng họ lên một mô hình, mà có lẽ họ cũng kinh ngạc không kém, là xứ đứng hàng đầu thế giới thế kỷ 20. Hai đặc điểm của dân Nhật cần nói đến trước tiên là những đức tính quân sự và phong kiến và những biệt tài nghệ sĩ thiên nhiên. Có lẽ như vậy là nhờ Thần đạo - Shinto thiêng liêng và nuôi nấng hai đặc điểm này dù chúng có tính cách sơ khai, và Thần đạo vẫn duy trì mạnh mẽ như là một tôn giáo, trải qua nhiều thế kỷ Nhật.
1- Nguồn gốc ban đầu lịch sử dân Nhật
Nguồn gốc dân Nhật lẫn lộn và mờ tối. Chỉ một điều chắc chắn là ở các đảo nước Nhật đã có nhiều tộc dân khác không có cá tính Nhật sinh sống, trước khi chính dân Nhật đến các đảo . Một trong những tộc dân này là Ainu đã sống sót đến ngày nay , dù rằng rất bấp bênh . Ainu thuộc giòng giống Cáp ca - Caucasian , Đông Âu - Trung Á, da trắng và râu rậm . Vật tỗ - tô tem của Ainu là gấu và đánh cá và săn bắt là ngành nuôi sống tộc dân này. Họ chiếm ngự các đảo miền Bắc, nhưng nay họ chỉ còn là một nhóm nhỏ sống tại đảo Hokkaido.
Mắc khác, dân Nhật thuộc tộc dân Mông Cỗ- Mongolian race , thấp hơn các đặc điểm Mông cỗ điển hình có mắt híp , thoáng sắc tố vàng , tóc đen , mặt dẹp hơn loại Caucasian, gò má cao, và chân tay tương đối ngắn so với thân thể. Đặc điểm cuối cùng này giúp thân thể bảo tồn nhiệt lượng, có thể mất nhiều nếu chân tay quá dài. Chân tay ngắn cũng như mắt híp, có lẽ là để chống lại ánh sáng tuyết chói lọi, cho nên tộc dân Nhật đôi khi được xem là thuộc về kho bảo tồn nòi giống các tộc dân Mông Cỗ thời tiền sử ở miền Bắc Xi Bê Ri - Tây Bá Lợi Á. Trong gia tộc Mông Cỗ, ít nhất là có hai vùng nguồn gốc chính xác phân biệt họ với các tộc dân lẫn lộn hình thành tộc dân Nhật. Vùng thứ nhất là Trung Á, phân biệt đáng kể ra là ngôn ngữ. Bảng vần Nhật ngữ (nguyên âm tiếp theo phụ âm ) và vài từ gốc cho thấy đôi chút đồng dạng với hai tộc dân Hung gia Lợi - Magyar và Phần Lan. Cả ba cùng chung gốc Trung Á. Vùng nguồn gốc thứ hai cho một vài nòi giống Nhật là miền Nam Trung Quốc. Chứng cớ là vài đặc điểm lý học, tỉ như khổ người tương đối nhỏ, da vàng, xương xẩu mảnh mai, tương ứng dân chúng miền Nam hơn là miền Bắc Trung Quốc . Vài món chế độ ăn uống cũng hướng về miền Nam Trung Quốc, chẳng hạn gạo cơm lúa nước- wet rice . Còn một vùng nguồn gốc thứ ba, thuộc Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương thì còn trong vòng tranh cải .
Vậy chớ các tộc dân này lẫn lộn và định cư thế nào trên đất liền ?
|
Núi Phú Sĩ |
Nhật bản là 4 hòn đảo lớn, chạy từ Bắc xuống Nam rồi cong về phía Tây như sau: Hokkaido , Honshu ( đảo chính ), Shikoku và Kyushu và vô số đảo nhỏ; tổng số diện tích khoảng bang California, Hoa Kỳ. Khí hậu phô bày từ tuyết rơi dày mùa đông ở Hokkaido đến cây cỏ bán nhiệt đới ở Kyushu; phần lớn nước Nhật là núi non, chỉ dành 17% đất đai cho nông nghiệp , phụ thêm bằng một diện tích nhỏ ruộng đồi núi theo bậc thang. Ba đồng bằng chánh nông nghiệp ở Nhật là Đồng bằng Kanto , quanh thủ đô Tokyo, rộng chừng 1 297 000 ha, Đồng bằng Nobi, quanh thành phố Nagoya, và Đồng bằng Kansai, quanh các thành phố Nara, Kyoto và Osaka ở cuối phía đông Biển Nội địa - Inland Sea. Hai đồng bằng vừa kể chỉ rộng 1/10 diện tích Đồng bằng Kanto. Mưa nhiều và cặm cụi làm việc , đã giúp dân Nhật sống sót với sản phẩm nông nghiệp, nhưng họ cũng đã phải luôn luôn bổ túc bằng hải sản: cá , sò nghêu, và rong biển. Một nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật trong Đệ Nhị Thế Chiến đã chứng minh là hải sản, và một số lượng ít ỏi thịt, gạo , và rau đậu đặc biệt là củ cải ( vỏ trắng hay vỏ xanh ) - radish khổng lồ đaikon giàu sinh tố đã có thể cung cấp một chế độ ăn uống chu toàn giá rất rẽ. Nhiều người đã lưu ý là tình trạng hải đảo Nhật rất giống Vương Quốc Anh - Great Britain. Cả hai đều đủ gần một lục địa lớn hầu nhận được kích thích văn hóa và đủ xa xôi hẻo lánh để tiến trào đến một lối sống cá biệt, có cơ tránh khỏi ngoại xâm. Cả hai nước đều phát triển hải quân mạnh mẽ, nhờ khai thác kỷ xảo nghề đánh cá và thương mãi. Cuối cùng, cả 2 nước vào thời cận đại, cũng đã cố gắng mãnh liệt chế tạo công nghệ và ngoại thương để nuôi sống dân gian hải đảo. Trên phương diện địa lý, các đảo Nhật khác biệt Vương quốc Anh vì Nhật có núi cao hơn 2 dặm Anh ( 3218m ) bên bờ rìa một lằn nứt sàn đại dương sâu 5 dặm Anh ( 8045m ) tên gọi là Hố sâu Tuscorora Deep. Căng thẳng phát sinh khiến cho Nhật rất dễ bị động đất , có khi rất tàn phá. Các đảo Nhật chứa nhiều núi lữa vẫn hoạt động. Chóp hình nón hoàn hảo núi Phú Sĩ - Mount Fugi là một núi lữa đã tắt ( phun lần cuối cùng năm 1707) ; nhưng núi Asama vẫn còn tích cực và rất nhiều vòi phun cao hơi lưu huỳnh thoát ra ngoài lằn nứt các núi miền Trung nước Nhật. Nhật tương đối nghèo nàn quặng mỏ kim loại: Nhật rất ít quặng sắt và dầu lữa.Than đá cũng hiếm và phẩm giá không tốt, và chỉ có đồng là phong phú. Trước thời cận đại, rừng Nhật cung cấp gỗ dồi dào đủ loại Nhật cần thiết để xây dựng nhà cửa, đền thờ và đại gia trang ngoài tàu thuyền và mọi loại dụng cụ . Sông suối chảy mau lẹ không giúp gì nhiều cho giao thông, nhưng cống hiến lớn lao vào nguồn thủy điện.
Nhật là nước chậm chân trên việc phát triển văn minh, vì lẽ các phong trào văn hóa tràn sang Nhật phải xuyên qua phía Đông, Trung Á và Trung Quốc. Rất ít chứng cớ còn sót lại vào Thời Đại Đồ Đá Cũ - Old Stone Age ở Nhật. Văn hóa chánh đầu tiên thuộc Thời đại Đồ đá Giữa-Mesolithic các giai đoạn sớm hơn, khởi đầu khoảng 3000 năm trước Công Nguyên ( CN ) - BC . Văn hóa này có tên là Jomon, có nghĩa theo tiếng Nhật là “ Mô hình Dây thừng - Cord Pattern” phân biệt các làm đồ gốm bằng tay, không phải đồ gốm quay tròn trên bánh xe. Dân gian Jomon dùng các vũ khí bằng đá và sống trong hốc chìm lõm - sunkun pit , loại gia cư dân gian Trung Hoa sống thời tiền cỗ. Dân Jomon không biết nghề nông, sinh sống bằng các đào củ, lượm hạch quả - nut , săn bắt thú nhỏ trong rừng và sò nghêu bải biển. Nhóm văn hóa thứ hai đến Nhật chậm hơn giữa 300 và 100 trước Công Nguyên , tên gọi là Yayoi, từ một vị trí ở Tokyo khi có nhiều khám phá sớm hơn , tuy nền văn hóa này mạnh nhất ở miền Tây nước Nhật. Dân gian Yayoi làm đồ gốm trên bánh xe và đã biết nghề nông khá tân tiến, trên ruộng lúa nước tưới tiêu kiểu Trung Hoa. Rỏ ràng là dân gian Yayoi xử dụng vừa đồ đồng thau lẫn đồ sắt , cho nên không thể nói rằng Nhật cỗ đại đã trải qua thời kỳ Thời đại Đồng Thau - Bronze Age một cách riêng rẽ. Các đồ khảo cổ Yayoi là: gương soi, chuông, kiếm, và giáo mác bằng đồng, một dụng cụ tế lễ, và một ít đồ vỏ khí bằng sắt. Tộc dân Yayoi cũng sống trong hốc chìm, nhưng có 2 đặc điểm rất gần lịch sử Nhật: đó là phương cách họ làm nghề nông và mái lợp ” tranh “ trên nhà sơ khai. Các mái kiểu này ghi rõ trên các chuông đồng thau trang trí to lớn , một đặc điểm văn minh Yayoi .
Vào giữa thế kỷ thứ 3 sau CN ( AD ) văn minh Tomb , chồng lên văn minh Yayoi , tuy không thay thế hẳn văn hóa này. Nét văn hóa Tomb là việc xây cất vài phòng chôn cất bằng đá và các gò mộ đồ sộ bằng đất, dài 500m và cao 40m.
|
Haniwa, nghệ thuật cuối thời Tomb
vào thế kỷ thứ 6 thứ 7 |
Các mồ và nấm mồ này tương tự các nơi chôn cất ở Cao Ly ( Triều Tiên, Đại Hàn ) và Tây Bắc Á , trình bày thêm ảnh hưởng của lục địa, những gì đã đến Nhật các thời kỳ sớm hơn. Các ngôi mộ cũng cho thấy một giới qúi tộc mạnh mẽ có khả năng chỉ huy một số công nhân to lớn xây mộ. Liên hệ đến các ngôi mộ là hình dáng trên các đồ gốm bằng đất sét màu hơi hơi nâu hay hơi đỏ biểu hiện đàn ông, nhà cửa, động vật, đặc biệt là ngựa. Vùng Yamato chứa nhiều ngôi mộ nhất, và những ngôi mộ giàu sang nhất là cho các Đế vương dòng hoàng đế đầu tiên của lịch sử Nhât.
Nhà Hán Trung Quốc chiếm Cao- Ly - Triều Tiên ( Korea ) làm thuộc địa năm 108 trước CN, một triều đình địa phương đã hấp thu nhiều ảnh hưởng Trung Hoa rồi. Thế cho nên dân Hán đã biết Nhật rỏ hơn và triều đình Hán, năm 57 sau Công Nguyên, đã phái một sứ giả viếng thăm Nhật. Nhắc lại, cuộc khởi nghĩa của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị ( Hai Bà Trưng 14- 43 sau C N ) xảy ra vào năm 40 sau Công Nguyên. Nhưng ghi chép cụ thể về Nhật lại từ triều đình Wei ( Vệ ), một nước chư hầu nhà Hán. Wei Chih ( Vệ Chí ? ), năm 292 sau Công Nguyên, kể ra một tộc dân Lùn ( Wa ) ở những vùng được xác nhận dễ dàng là Kyushu và miền Tây nước Nhật, gồm 100 bộ lạc, trong đó 30 bộ lạc đã tiếp xúc với triều đình Wei. Sử Wei ghi chép là các nhà cai trị có khi là nam phái , có khi là nữ phải , phản ảnh chuyễn hướng từ mẩu hệ đến phụ hệ hay ngược lại. Một quốc vương thế lực là Hoàng Hậu Mimeko hay Pimeko , có nghĩa là “ Con gái Thái Dương- Mặt Trời “. Ở Việt Nam , thế kỷ thứ III sau CN là đời Bà Triệu , Triệu Trinh Nương hay Triệu thị Trinh (226- 248 ) , khởi nghĩa năm 246 , khi mới 20 tuổi và bị tướng nhà Ngô là Lục Dận đánh bại phải tự tử ở núi Tùng Sơn quận Cửu Chân ( Thanh Hóa ) năm 248.
2- Huyền thoại Thần Đạo
|
Izanagi và Izanami |
Huyền Thoại Thần Đạo - Shinto Legends là nguồn gốc thông tin thứ ba về Nhật thuở ban sơ, biểu hiện một đôi vợ chồng chủ yếu là Thần Nam Izanagi và bà vợ Izanami, đứng trên cầu vồng Thiên Đường, nhúng lưỡi giáo vào đại dương phía dưới. Những giọt nước chảy từ đầu lưỡi giáo đông lại thành hình các đảo Nhật linh thiêng. Một dịch bản khác cho rằng các đảo Nhật là thành quả của hôn nhân giữa thần nam và thần nữ. Họ đã xuống các đảo sinh sống và con cháu họ cũng là thần nam và thần nữ đất Nhật. Thần Nam cuối cùng là Thần Lữa - Fire God , và sinh hạ thần này làm chết bà mẹ Izanami. Izanagi đi tìm vợ ở Âm ty, nhưng thân thể vợ đã rữa vỡ. Khi thần nam trở về ánh sáng ban ngày, qua “ Đèo Hades - Even- Pass of Hades “ tại Izumo , phía tây Honshu , đối diện Cao Ly. Ông tẩy sạch ô nhiễm cái chết bằng nước sông ở Hyuga , đảo Kyushu và nhiều thần khác phát sinh từ thân thể ông: Thần nữ Thái dương Amaterasu từ mắt trái , Tsukiyomi, Thần Mặt Trăng từ mắt phải, và Susanowo Thần Giông tố- Storm God từ mũi. Thần Mặt Trăng không đóng vai trò quan trọng nào, nhưng Thần nữ Thái Dương và Thần Giông tố em thần nữ và sau đó là chồng bà trở thành những nhân vật quan trọng trên Điện thờ Bách Thần Pantheon Nhật…Những truyền thuyết này phản ảnh cách thờ phụng tính chất sơ khai của một dân gian với đôi chút khôi hài và cảm giác mạnh mẽ; chúng có nhiều yếu tố tỉ như tầm quan trọng gắn vào ánh nắng ( Amaterasu), giông tố và mưa ( Susanowo ), nhật nguyệt thực ( Amaterasu trốn trong hang đá ) các lễ nghi sinh đẻ, không mấy khác các tôn thờ tương tự khắp thế giới .
Vài huyền thoại Thần đạo, cộng thêm vào các vị trí địa lý đặc thù như Izumo và Kyushu , cũng có chứa vài quy chiếu đến sự cố chính trị và quân sự hiên đại và là đầu mối đánh giá cho lịch sử . Kyushu - Lưu Cầu , đảo nằm phía Nam và phía Tây cuối Nhật bổn và gần Triều Tiên, là nơi giao tiếp đầu tiên giữa người từ Nam Trung Quốc và Triều Tiên đến các đảo Nhật. Các khảo cỗ nhấn mạnh đến Kyushu là nơi phát sinh sớm nhất nền văn hóa Nhật và xác định đúng theo huyền thoại cháu trai của Amaterasu là Ninigi -no-mikoto , từ Thiên Đường xuống tới một đỉnh núi ở Kyushu. Chắt của Amaterasu, Jimmu-tenno, làm một chiến dịch chinh phạt phía Đông, dọc theo bờ biển miền Nam đảo chánh Nhật. Jimmu- tenno có nghĩa là Chiến sĩ Thần linh - Divine Warrior, vị hoàng đế thể nhân ( con người ) đầu tiên nước Nhật, tổ tiên là hoàng đế thần linh trên trời. Chiến dịch tiến dần lên Biển Nội địa, và binh lính thiết lập một dinh trang ở vùng Yamato , gồm luôn cả bán đảo Ise , ngày nay là nơi chứa nhiều đền thờ linh thiêng được kính trọng nhất của Thần Đạo.
|
Biểu hiệu Thần Đạo |
Tôn giáo Thần Đạo -Shintoism dù căn cứ trên thuyết vạn vật hữu linh - animism thật sơ khai và thờ phụng thiên nhiên, đã sống sót mạnh mẽ cho đến Nhật bổn cận đại. Sức mạnh Thần Đạo tuồng như thoát thai từ phương cách tự nhiên, như là hiện thân vô ý thức những cảm tưởng sâu xa nhất của dân gian Nhật về Thiên nhiên và lòng yêu nước cực điểm của họ. Thần Đạo không có người thiết lập , không có kinh thánh, không có quy tắc - luật luân lý . Thoạt tiên Thần đạo cũng không có tên . Từ Thần Đạo có nghĩa là “ phương cách của các Thần - the way of the Gods “ , và đó là từ mượn của ngôn ngữ Trung Hoa, lâu ngày sau khi huyền thoại biến thành một truyền thống dân gian địa phương. Chữ viết ghi ý ở Nhật có thể đọc là Kami-no-michi ; từ kami có thể có nghĩa là “ Thần “ hay đơn giản “ những ai bên trên “. Không nên hiểu theo ý niệm tính linh thiêng - holiness liên hệ đến Thánh Thần của truyền thống Do Thái Thiên Chúa- Judeo - Christian . Kami đơn giản hơn và bản chất thần thánh Thần Đạo liên quan đến bất cứ cái gì đáng ngạc nhiên và lạ lùng trong thiên nhiên, tương đương với từ mana ( thần lực, ma lực ) hay từ la tinh “ numen “ . . Những thần Thần Đạo này được thờ phụng chiêm bái không hình ảnh, một cách đơn sơ như chắp tay vái và cúi đầu ở miếu thờ, điện thờ. Theo quan niệm kami, ý niệm tsumi- tội ác hay tội lỗi ở Thần Đạo, nối kết với lễ nghi không tinh khiết - impurity rituals hơn là phạm tội luân lý . Lễ nghi không tinh khiết hay ô nhiễm liên kết đến máu, thương tích, chết , có tháng , làm tình và đẻ con. Từ kega có nghĩa là “ thương tích “ và “ làm ô uế “. Tẩy uế hay rửa sạch tượng trưng gồm súc miệng, khẩn thiết trước khi cúng vái. Đó là yếu tố kiêng kỵ - taboo và vật thần động vật - animal fetichism thuở ban đầu Thần Đạo, rất giống các tôn giáo sơ khai ở Phi Châu và nhiều nơi khác .
3- Phật giáo Nhật và ảnh hưởng Trung Quốc
Năm du nhập chánh thức Phật giáo vào Nhật là 552 sau CN, khi hình ảnh và các đồ vật thờ phụng được vua xứ Paikche ở Triều Tiên gửi tặng Nhật, hy vọng nhận viện trợ chống vua thù địch xứ Silla. Không còn chút nào nghi ngờ rằng hình ảnh, kinh phật, tu sĩ đã đến Nhật từ Triều Tiên trước đó. Và cũng chắc chắn rằng văn bản cỗ điển Khổng Phu Tử Tàu và các sao chép Triều Tiên đến Nhật trước năm 400. Phật giáo ấn tượng mạnh mẽ trên dân Nhật, như thể là một tôn giáo, một hệ thống tư tưởng tiết lộ sâu xa và ý nghĩa về đời sống và chết chóc mà trước đó Nhật chưa bao giờ ngờ tới . Tinh thần Nhật phản ứng nhiệt thành đến vẽ đẹp và nghi thức thờ phụng của Phật giáo. Nhưng Phật giáo chỉ đến Nhật sau cuộc hành hương lâu dài, từ xứ phát xuất Phật Giáo . Như chúng ta đều biết Phật Giáo phát sinh từ miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ sáu trước CN ( BC ) qua kinh nghiệm bản thân một thái tử, Đức Phật Thích Ca - Sakyamuni ( hay Gautama ). Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ giáo - Hinduism, lập ra một phần vì muốn cải cách Ấn Độ giáo. Chẳng hạn Đức Phật- Buddha , tiếng Nhật là Shaka Butsu, bải bỏ các giáo lý Hindu như vai trò chủ trì cuả trí thức Bà la Môn - Brahmins , hệ thống đẳng cấp - caste systems và giá trị của tu khổ hạnh - ascetism thái cực ( nhưng không bỏ rèn luyện tinh thần ). Tôn giáo mới này lên đỉnh tột độ ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ ba trước CN, dưới trào hoàng đế Asoka ( trị vì các năm 2743- 232 trước CN ) Chính sách Asoka là gửi sứ giả truyền đạo Phật theo các đoàn hành thương- caravan đến nhiều quốc gia, và đặc biệt là thái tử đến chuyễn hóa Phật giáo cho Tích Lan - Ceylon ( nay là Sri Lanka ). Phật giáo cũng thay đổi theo thời gian . Hình dạng mới quan trọng nhất là ý niệm Bồ Tát - Bodhisattva , một nhân vật khoan dung- từ bi sắp vào niết bàn - nirvana, nhưng lại trở về nhân thế cứu độ mọi sinh linh . Các vị bồ tát đều trở thành Phật , hiện thân Đức Phật, ti như Quan Âm ( Việt ) hay Kuan Yin ( Tàu ), Kannon (Nhật ) . Chính ở hình dạng mới này gọi là Đại Thừa- Mahayana ( Greater Vehicle ) tràn sang Đông Á, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bổn, Mông Cỗ, Tây Tạng. Ngược lại với Phật giáo Tiểu Thừa- Hinayana ( Lesser Vehicle ), gần nguyên thủy hơn , tên gọi là Phật giáo Theravada ( phương cách các trưởng lảo ) vẫn duy trì mạnh mẽ ở Tích Lan , Miến Điện ( Burma , Myanmar ) và một vài nơi Đông Nam Á. Cả hai giáo phái Phật giáo này đã biến mất đi tại xứ Ấn Độ nguồn gốc.
Phật giáo đến Trung Quốc từ Trung Á vào thế kỷ thứ nhất sau CN ( AD) vào triều đại nhà Hán , nhưng không mấy phát triển, mãi cho đến thế kỷ thứ tư ở miền Bắc Trung Quốc. Phật giáo phát triển mạnh vào thế kỷ thứ sáu, nhờ sự ủng hộ của các triều đại miền Bắc Trung Hoa là Wei ( Vệ ? ) và Liang ( Lương ? ). Đó là lúc Nhật chánh thức chấp nhận Phật giáo đến Nhật.
|
hoàng tử Shotoku |
Phật giáo đã gây ra tranh cải ở Nhật từ thuở mới du nhập . Đại gia đình tộc Sogalược quân sự . Ông cũng cho là người sánh chế ra Kana , bảng vần - syllabary Nhật bổn đơn giản hóa từ chữ viết Tàu ( hán tự ) nhưng chỉ dùng cho ngữ âm học mà thôi . theo Phật giáo .Cả hai đại gia đình Mononobe và Nakatomi có nhiệm vụ chánh thức thờ phụng Thần Đạo chống du nhập Phật Giáo. Trưởng tộc Soga Umako thắng trận Shigisen năm 587, khiến cho tộc Mononobe phải rút lui, không còn chống Phật Giáo nữa. Soga Umako đã đặt nữ hoàng Suiko lên cầm quyền và xếp đặt cho cháu bà này, cũng thuộc tộc Soga và là con thứ hai của cựu hoàng Yomei làm nhiếp chánh - regent. Hoàng tử Shotoku ( Shotoku Taishi 572 -622 ) này là một nhân vật lịch sử Nhật đáng kể nhất. Ông được mọi người kính nễ vì học rộng và được thương mến vì nhân từ , đức độ. Ông là một Phật tử mộ đạo và đã theo học một thượng tọa từ Triều Tiên sang và có nhiều liên lạc với triều đại Trung Quốc Sui ( Tùy ? ) rất sung mộ Phật giáo . Ông cũng theo học một học giả kinh điển Khổng giáo , sau đó đã rất thịnh hành ở Nhật trên phương diện nghệ thuật lảnh đạo nhà nước . Dân Nhật đã kính nễ hoàng tử Shitoku nhất là vì chánh sách của ông đã dẫn Nhật chấp nhận các mô hình Trung Quốc thời đó về chánh trị , tôn giáo và nghệ thuật. Bằng ba con đường . Thứ nhất là ban hành một hiến pháp gồm 17 điều ( điều XII ghi rỏ là một nước không thể có hai vua , dân chúng không thể có hai chủ nhân . Vua phải là chủ dân khắp nước ) , mục đích là đẩy xa nhãn quan truyền thống dân Nhật là lảnh tụ tộc Yamato đứng trên các lãnh tụ các tộc khác theo gương kim tự tháp thư lại triều đình Trung Quốc, chỉ có một nhà cai trị duy nhất trên chóp quyền hành. Thứ hai là đặt mũ hạng - cap rank ở nghi lễ triều đình Nhật ( màu sắc và vật liệu mũ khác nhau để định hạng ) , có mục đích cũng cố quyền hành chánh quyền trung ương. Cách thứ ba của hoàng tử Shotoku thành công nhất và mới thật đóng vai trò bậc nhất cho tương lai nước Nhật: thiết lập bang giao, thăm viếng với triều đình nhà Sui, lần thứ nhất năm 607 và 14 lần khác trong suốt hai thế kỷ , lần cuối năm 838 . Nổi tiếng nhất lần thăm viếng cuối cùng là Kibi-no-Mabi , đến sống ở Tràng An ( nay là Tây An ) kinh đô nhà Đường ( T’ang ) 17 năm . Nhật cho là Kibi-ho - Mabi đa đem về Nhật nghệ thuật đồ thêu - embroideries, đàn tỳ bà - biwa 4 dây và trò chơi go hay cờ tướng kiểu Tàu , rất được quân nhân Nhật ưa thích làm huấn luyện chiên
Tuy Shotoku là người khởi xướng suy tính kỷ lưỡng chánh sách Tàu hóa hay thuận theo các mô hình Trung Quốc , nhưng hoàng tử cũng tượng trưng đáng kể cho một vài khuynh hưởng tái xuất hiện thường xuyên ở lịch sử Nhật bổn. Trước hết, ở địa vị nhiếp chánh, ông thật sự nắm quyền hành cai trị , nhưng chỉ gián tiếp dưới tên nữ hoàng , cô ruột ông. Sau đó , thủ tục có một nhà cai trị trên danh nghĩa và một nhà cai trị thật sự trở thành thông lệ , gần như tiêu chuẩn. Trong nhiều trường hợp, thực thi cai trị gián tiếp được mở rộng thêm, chánh sách của kẻ nắm thực quyền được một nhóm nhỏ , không xác định cố vấn, núp phía sau qui định. Tuy họ không có lảnh tụ biết được tên , nhất trí của họ quá uy vũ khiến kẻ nhà nắm thực quyền không thể không biết tới . Thứ đến hoàng tử Shotoku dẫn đạo phong trào du nhập ý thức những dạng mới tôn giáo, triết lý, nghệ thuật và tổ chức chánh trị vào đất Nhật. Tập quán vay mượn văn hóa và kỷ thuật được công nhận là một đặc điểm Nhật, ngay cả những ai không biết rõ lịch sử Nhật . Nhưng điều ít ai nhìn nhận là cách đặc biệt Nhật đồng hóa vật liệu vay mượn và làm thành một cái gì mới cho chính mình. Nhật lại thường cải tiến nguyên bản nữa. Phật giáo là một thí dụ chánh yếu , khi tôn giáo lãnh đạo suy nghĩ tư biện này và ảnh hưởng sáng tạo của tôn giáo đối với nghệ thuật dần dần chuyễn từ Trung Quốc sang Nhật Bổn . Tiến trình này cần trải qua nhiều thế kỷ, vì Phật giáo không thể nắm vững , thông suốt dễ dàng được. Về kỹ thuật cận đại, Nhật khống chế và tiến triển mau lẹ hơn, nhưng nguyên tắc đồng hóa chi tiết và ứng dụng thông minh vẫn giống như nhau. Trí thức Nhật đi tìm kiếm tôn giáo mới và những nghệ thuật mới, tất nhiên không thể không bị ấn tượng mạnh mẽ về cảnh huy hoàng nhà Đường Trung Quốc . Năm 618 sau CN, Trung Quốc tiến vào một thời kỳ một quốc gia lớn nhất , tổ chức hay nhất, văn minh - văn hóa tiến bộ nhất Thế giới. Thời kỳ này ở Âu Châu, Đế quốc Tây La Mã - Western Roman Empire điêu tàn. Nửa phía Đông Âu Châu tuy to lớn , nhưng không địch nổi Trung Quốc. Văn minh Hồi giáo to lớn chỉ mới phát sinh. Các nhà tham quan Nhật bổn đà thích thú và quá nễ sợ vẻ rực rỡ của kinh đô Tràng An - Ch’ang -an vùng Tây Bắc Trung Quốc, Họ đã sao chép đồ án thành phố Tràng An theo một mạng lưới phố xá hình chữ nhật, khi họ xây dựng sau đó kinh đô Nhật mới ở Heian ( Kyoto ). Triều đại nhà Đường rất hiếu khách , mở rộng đón chào ngoại quốc và đón chào ý kiến mới : Armenian, Do Thái, Triều Tiên, Ả Rập, từ Trung Á , và dân Thiên chúa giáo Nestorian truyền thống Á Châu tổ tiên tinh thần từ thánh tông đồ Đức Giê Su Thomas , mọi người đều để lại dấu tích tại các con đường Tràng An . Người Nhật đem về nước hai hệ thống tư tưởng căn bản nay đã hoàn toàn Tàu hóa : Khổng Giáo và Phật giáo . Nhật Bổn đã nhận sớm hơn Phật Giáo Tàu từ Triều Tiên , nhưng nay nhận thêm nhiều hiểu biết Phật giáo và nhiều môn phái trực tiếp từ Trung Quốc. Ảnh hưởng của Khổng Giáo , tuy ít tráng lệ hơn, nhưng cũng đánh dấu và ảnh hưởng lâu dài đến tư tưởng chánh trị và thể chế Nhật . Đáng tiếc là vào thời gian này , Việt Nam còn là An Nam Đô hộ Phủ của Nhà Đường , chưa có độc lập lâu dài, để phát huy văn hóa văn minh riêng cho mình như Nhật Bổn , Triều Tiên .
Ảnh hưởng của tộc gia đình Soga , hoàng tử Shotoku kéo dài mãi, đến khi cuộc đảo chánh chống Soga tục gọi là âm mưu “Vườn Đậu tía - Garden Wisteria “ do hoàng tử Naka-no Oye ( sau đó lên ngôi hoàng đế ) và Kamatari thuộc tộc gia đình Nakatomi thành công. Kamatari sau đó được phong làm một tộc gia đình mới gọi là Fugiwara ( Đậu tía ) . Như vậy ông ta là thiết lập viên của đại tộc Fugiwara , sẽ chủ trì triều đình Nhật nhiều thế kỷ , không có đối thủ làm chủ số phận quốc gia Nhật từ năm 857 đến năm 1160 và vẫn còn ảnh hưởng mạnh đế triều Nhật cho đến thế kỷ thứ 19 , dù rằng uy quyền đã trao qua tay Mạc phủ ( Tướng quân ) – shogunate.
4- Thời kỳ Nara : 710- 794 : văn hóa Tàu kích thích kiến tạo mô hình Nhật
Năm 710 , kinh đô nước Nhật cố định lần đầu tiên ở Nara , vùng đồng bằng phì nhiêu ở bề đáy bán đảo Ise và gần cuối phía Đông Biển Nội địa Nhật. Thuở ban đầu của vương quốc Yamato, Nhật không có một kinh đô duy nhất . Mỗi hoàng đế nối tiếp nhau đều quen cai trị từ dinh trang mình, vì tiện lợi và cốt để tránh ô nhiễm lễ nghi liên quan đến tiên đế vừa chết , theo đức tin Thần Đạo. Học thuyết Phật giáo và Khổng giáo khiến việc di chuyễn hoàng cung không còn cần thiết nữa. Việc tạo ra đời sống triều đình và kiến trúc tôn giáo cũng làm cho di chuyễn không thực hiện được. Cố định trung tâm chánh quyền dẫn Nhật tới thời Kỳ Nara . Lưu ý là bảng niên đại Nhật , khác với sắp xếp niên đại Tàu và nhiều quốc gia khác là không tính theo triều đại mà theo thời kỳ: tên gọi thời kỳ là tên vị trí địa lý quyền lực tỉ như Nara , Kamakura , Edo. Chính vào thời kỳ Nara, văn hóa Tàu và Phật giáo in sâu vào Nhật đã đâm hoa và sau đó sinh trái Nhật, hoàn toàn địa phương và đầy tính chất Nhật.
|
Đức Phật Miroku Bosatsu |
Phật giáo tiếp tục tăng trưởng và hàng ngũ kẻ mộ đạo Phật gia tăng , nhất là ở giới thượng lưu Nhật. Nguyên cớ thật tình tôn giáo lúc này, pha trộn tham vọng chánh trị và Phật giáo, thăng trầm theo số phận các đại tộc gia như Soga chẳng hạn . Tôn giáo mới ăn sâu vào tâm trí Nhật, không còn tùy thưộc một hay hai thị tộc nữa. Triều đình là một kẻ hổ trợ trung thành của Phật giáo và các nhà cải cách Taika đã nói trên, tiếp theo hoàng tử Shotoku, cũng vững vàng trọng Phật như vậy. Trong lâu dài, Phật giáo thực hiện một ảnh hưởng tinh lọc và văn hiến trên các chiến sĩ thô bạo Nhật bổn đương thời. Phật giáo tiết lộ cho họ sức mạnh của chính nhân quân tử và mở toang những viễn cảnh về vấn đề đời sống, chết chóc và đau đớn theo những phương cách Thần Đạo không thi hành đươc. Một thí dụ cụ thể là ảnh hưởng của hình ảnh Đức Phật Miroku Bosatsu đến chùa sư nữ Chuguji Nunnery ở NARA từ thế kỷ thứ tám. Một trong những đo lường mức độ ảnh hưởng gia tăng của Phật giáo ở Nhật là số tu viện , sư , sải gia tăng . Năm 624 hai năm sau khi hoàng tử Shotoku mất, Phật giáo du nhập Nhật chánh thức chỉ mới 7 năm , Nhật đã có 56 chùa tu , 816 tăng lữ, 569 sư cô, sư bà. Năm 692, con số chùa tu là 545 và cúng dường triều đình lớn lao làm cho Phật Giáo Nhật có khuynh hướng trở thành một quốc giáo. Tuy nhiên thực sự Phật giáo không đạt tới tình trạng này, vì các lễ lạc Thần Đạo tại triều đình luôn luôn được duy trì : các hoàng đế cũng như giới quý tộc ủng hộ cả hai thể chế Thần Đạo và Phật giáo . Ý nghĩa chuyên nhất và sự cần thiết cố tình lựa chọn một tôn giáo duy nhất của dân Tây Phương đặc biệt khiếm diện ở Đông Á. Đa số dân Tàu , dân Nhật, dân Việt, không thấy gì khó khăn điều hòa đời sống họ theo ý nghĩa , nhiều hơn một đức tin, một tôn giáo cùng một lúc .
|
Mamnyoshu |
Nghệ thuật viết - the art of writing
giúp cả Thần Đạo lẫn Phật Giáo. Ngay từ thuở ban đầu thời kỳ Nara, các huyền thoại của Thần Đạo cũ được viết trong Kojiki( 712 ) và Nihonji hay Nihonshoki ( Sử biên niên Nhật - The Chronicles of Japan, 720 ). Các công trình này trình bày rỏ rệt sự phối hợp của Tàu với các yếu tố địa phương, chất liệu thuần nhất tinh thần Nhật , nhưng dạng thì pha trộn cả hai. Một dạng văn chương từ thời kỳ Nara là tập thi phú nổi tiếng tên là Mamnyoshu ( Bộ sưu tập Hàng Vạn Lá - Collection of a Myriad Leaves ) , có lẽ do Tachibana no Moroye ( khoảng 738-756) , một chức quyền cao cấp Fugiwara che chở , biên soạn. Ở thời kỳ sớm này đã có khuynh hướng là lựa chọn yêu chuộng hơn, cách trình bày đề tài hết sức ngắn gọn và chính xác , cũng như gợi lên một tâm trạng song song mau lẹ từ Thiên Nhiên , đặc điểm của mọi thi phú Nhật sau đó. Cũng đặc biệt vắng mặt ở Nhật cũng như ở Trung Quốc là những câu thơ hùng tráng. Hùng vĩ trong ngôn ngữ và đề tài là ở các thể văn xuôi lãng mạn quân sự , tỉ như ở Taiheiki, không phải ở thi phú, giai đoạn sớm hay giai đoạn chậm gì cũng vậy .
Phật giáo là yếu tố chủ trì lịch sữ Nhật thời kỳ Nara, không những ở tôn giáo , văn hóa mà còn ở cả các lảnh vực kinh tế và chánh trị nữa. Thời hoàng đế Shomu trị vì , một Phật tử cuồng tín gồm luôn cả thời kỳ Tempyo ( 729- 748 ) vang danh về lịch sử nghệ thuậ , khi một vài tượng Đức Phật nổi tiếng và từ bi nhất bằng gỗ và kim loại được thực hiện. Lúc Shomu trị vì, Phật Giáo đã đủ vững chắc và tự tín để hòa đồng với những đức tin Thần Đạo địa phương. Sư tăng Phật Giáo Gyogi ( 670- 749 ) dạy rằng các thần linh Thần Đạo là những hóa thân - avatars hay hiển linh Đức Phật. Tạo ra nền tảng của Thần Đạo Đôi ( Dual Shinto ) Ryobu Shinto. Theo thuyết này, Thần Nữ Mặt Trời Amaterasu được thờ phụng tên gọi là Vaicocana, Đức Phật đại vũ trụ cai quản thế giới ánh sáng. Chính Gyogy cũng tự tay thu thập cúng dường dựng tượng Phật gọi là Vaicocana hay Daibutsu ( Đại Phật- Great Buddha ) ở thành phố Nara. Đúc tượng Phật này là một cố gắng vĩ đại và tốn kém tài nguyên Nhật, cao 53 bộ Anh ( 15.9 m), nặng 500 tấn và mạ 500 cân Anh ( 450 kgr ) vàng kim . Đầu và cỗ tượng hơn 4,2m đúc liền một khối. Tượng Phật này hoàn thành và đặt ở đại sảnh rộng lớn chùa- đền thờ Todaiji năm 752. Bốn năm sau, vài vật tế lễ chùa này được đem về cất giữ ở kho tàng Shosoin gồm nhiều khúc gỗ lớn, hiện nay còn nguyên vẹn , cũng như những bảu vật của riêng hoàng đế Shomu: vũ khí, tranh ảnh, nhạc khí, sổ sách ghi chép điền thổ dân cư nguồn gốc Nhật như đồ gốm công trình kim loại từ Trung Quốc, Trung Á và có thể cả Ba Tư- Persia nữa . Chính trong thời kỳ Nara, chùa Horyuji xây cất năm 607, bị cháy tiêu được xây cất lại năm 704 dưới tên là Kondo hay
Đại sảnh Vàng kim - Golden Hall ,
một cơ cấu đồ sộ nhưng cân xứng theo kiến trúc nhà Đường đẹp đẽ nhất, và có lẽ là chùa xây cất bằng gỗ xưa nhất trên thế giới. Tưởng cũng nên biết chùa loại cổ nhất Việt Nam là chùa Trấn Quốc , đời Lý Nam Đế ( Lý Bôn hay Lý Bí 544- 548 ) xây dựng sát bờ sông Cái tên là chùa Khai Quốc ( mở nước ) , đời vua Lê Thái tông ( 14340- 1442 ) đổi tên là chùa An Quốc . Đời vua Lê Kính Tông ( 1600- 1618) bải sông lở , dân dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây; đến đời vua Lê Huy Tông ( 1580- 1705 ) mới đổi thành tên thành chùa Trấn Quốc . Chùa có lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa Việt Nam, phía trước là nhà bái đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý nhất là pho tượng Đức Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng.
|
Todai-ji temple ở Nara |
Chính sự kiện Phật giáo phát triễn mạnh mẽ thời kỳ Nara đã gây ra nhiều chống đối lớn lao cho rằng tăng lữ Phật giáo quá uy vũ và ảnh hưởng quá xá trên hoàng đế và trên những gì được bắt đầu trở thành tôn quý dưới danh nghĩa chánh sách quốc gia Nhật . Phản ứng chống lại các tu viện vượt nhanh vào thập niên 760, khi một tu sĩ Phật giáo Dokyo cố gắng làm nữ hoàng Koken yêu mến mình bằng giải thích tâng bốc, nịnh bợ các cơn mộng và điềm báo trước. Dù đại tộc Fuyiwara muốn hất cẳng ông, Dokyo đã trở nên người tâm phúc, đại pháp quan và có lẽ tình nhân của Koken. Nhưng năm 770, nữ hoàng Koken chết và uy quyền của Dokyo mất hết ngay.
Ba năm sau khi Kammu ( 781- 806 ) lên ngôi hoàng đế , có quyết định dời đô đến Nagoaka, không cách xa Nara mấy về phía Bắc. Lần này không phải vì những lý do thuần khiết lễ nghi, mà một phần là cố thoát khỏi ảnh hưởng “ xấu xa” các đại tu viện Nara. Kinh đô đóng ở Nagoaka chỉ 10 năm. Hoàng đế Kammu , sau khi hỏi han cặn kẽ các nhà chiêm tinh (thầy bói địa lý), lựa một vị trí mới, nay là Kyoto cận đại, và đến định cư ở Kyoto năm 794. Kinh đô mới là đồ án vĩ đại, tên là Heiankyo hay Kinh đô của Yên tĩnh Vĩnh Cửu - Capital of Eternal Tranquillity , có họa kiểu mạng lưới hình chữ Nhật như Nara, chiếu theo đường hướng kinh đô rực rỡ Trường An đời Đường. Nhật bổn vào thời kỳ này không có đủ tài nguyên như Trung Quốc để hoàn tất đồ án Kyoto. Thế nhưng cố gắng phi thường này chứng tỏ là Nhật bổn thật sự muốn tiến đến kiểu văn minh Trung Quốc, nhưng theo cách của chính Nhật bổn .
5- Mô hình Nhật bổn thời kỳ Đầu Heian ( 794- 857 ) , thời kỳ Cuối Heian hay Fugiwara ( 858- 1158 ) , thời kỳ Chấm Dứt Heian ( 1158- 1185 ) và Giới Chiến Sĩ xuất hiện.
|
Hoàng Đế Kammu |
Thời kỳ Đầu Heian ngắn ngủi có đặc điểm là Trung ương giảm bớt quyền kiểm soát các lảnh thổ mới ở phía Đông và phía Bắc và những phát triễn mới của Phật giáo. Lúc mới lên ngôi hoàng đế, Kammu đã phải đương đầu với sự thiết lập hai kinh đô kế tiếp nhau, nhưng vẫn phải lo âu đến những vấn đề cấp bách, vì sự chuyễn động của tộc dân Ainu ở miền Bắc Nhật. Những ruộng lúa tốt đẹp của đồng bằng Kanto, dần dần bị dân giang hồ tứ chiến Nhật chiếm, khi họ tiến về Đông rồi về Bắc. Một mặt họ phải làm ruộng , mặt khác họ chống cự , vì cuộc tiến tới của họ bị tộc dân Ainu tranh chấp . Ainu đã chiếm cứ các lảnh thổ này từ thời tân thạch, thời kỳ đồ đá mới-neolithic . Những chiến công của dân Nhật miền Đông thời Nhật ban sơ , đã được ca tụng nhiều và họ cũng bị động viên thường xuyên đi chinh chiến ở Cao Ly ( Triều Tiên ) từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ sáu. Năm 663, quân đội Nhật thất trận ở Triều Tiên và vương triều đồng minh Paikche bị vương triều Silla và nhà Đường phá tan. Dù cho Ainu có kháng cự, đa số dân Ainu sinh sống hòa bình cùng kẻ mới đến . Định hướng lan tràn loại chánh quyền kiểu Tàu, thu nhận ở Cải Cách Taika, không nuôi nấng tinh thần chiến đấu binh sĩ hay tướng tá . Hệ thống dân quân làm các binh sĩ thiếu kỷ xảo, tinh thần chiến đấu thấp hèn và các cấp chỉ huy là đồ kiểng hơn là tướng tá.
Vào lúc này, các năm 805và 806, 12 năm sau khi thành lập Heian, một sự cố cặp đôi xảy ra, đem lại một phát triễn đáng kể cho Phật giáo ở Nhật, nhưng không giải thoát kinh đô mới khỏi những căng thẳng chánh trị do tôn giáo đưa tới như ở Nara. Đó là 2 năm, hai nhà sư học giả nổi bật Saicho và Kukai, đạt quyền uy tột đỉnh, trở về Nhật sau một thời gian học hỏi ở Trung Quốc. Saicho ( sau đó được tôn danh là Dengyi Daichi ). Chùa tu viện Enryakuji của Saicho, thiết lập trước cả kinh đô Heian, tự tạo một thanh thế lớn, vì chùa được sử dụng để bảo vệ kinh đô khỏi những ảnh hưởng thâm hiểm đến từ Quỷ Môn Quan ( Ngõ Quỷ - Demon Entrance), hướng Tây Bắc thiếu may mắn. Hơn nữa, vài thần Thần Đạo được thờ như thể thần núi. Không muốn làm phật lòng đức tin Thần Đạo, đặc biệt ở vùng Yamato , Saicho đến sùng bái một trong những thần này có tên là Sanno- Vua Núi .
Nhờ vậy Phật giáo Ấn Độ, Thần Đạo Nhật và Chiêm Tinh Tàu , thảy đều được phần nào bảo vệ , theo tinh thần tu viện Enryakuji hiến cho kinh đô . Khi từ Trung Quốc trở về , Saicho còn đem theo học thuyết môn phái Tendai vào Nhật. Tenđai có nghĩa là “ Thiên lĩnh-Heavenly Platform “ hay cương lĩnh thụ phong. Môn phái Tendai có thêm ưu thế, khi Hoàng đế Nhật cấp cho môn phái Tendai quyền thụ phong các tăng lữ Phật giáo, như các môn phái cũ ở Nara. Môn phái Tendai cường thịnh hẳn lên, Cuối thời kỳ ở dãy núi Hiei rải rác có đến 3000 đền thờ, nhà thờ nhỏ, tu viện.
|
Nhà sư Saiko |
|
Nhà sư Kukai |
Nhà sư thứ hai trở về Nhật là Kukai hay Kobo Daishi đến núi Koya ở vùng Yamato , phía Đông Nam kinh thành. Ông cải cách thành dạng Nhật một môn phái quan trọng khác là Shingon - Thế giới Thật sự. Môn phái này cũng trở nên uy vũ và đối thủ tranh quyền Tendai, có khi làm rối loạn cả vương quốc Nhật . Một nhà sư học giả khác Ennin ( 793- 864 ) cũng học đạo ở Tràng An từ các nhà sư Tàu và Ấn Độ , được hoan nghênh khi trở về Nhật, đem kinh điển và các vật quí giá thờ phụng bí truyền rồi lan tràn khắp Nhật . Ông cũng đựợc vua phong làm Daishi như Saicho và Kukai.
Phần lớn thời kỳ Heian do đại tộc Fugiwara chủ trì. Ảnh hưởng của dòng họ này bắt đầu trước cả thiết lập kinh đô Nara . Như đã kể trên chính thiết lập viên dòng họ Fugiwara Kamatari là khiến trúc sư Cải Cách Taika . Theo thời gian và qua nhiều đấu tranh, chi nhánh Hokke ở phía Bắc đã trỗi dậy thành những lảnh tụ Fugiwara , nhờ trước tiên kiểm soát điền địa, ruộng đất căn bản liên tục quyền uy chánh trị ở Nhật. Nhưng một phương tiện lớn nhất để đại tộc Fujiwara sử dụng duy trì quyền uy chủ trì chánh trị là liên tục kết hôn với đế triều. Đại tộc Fugiwara cố thu xếp để các con gái họ trở thành vợ hay nàng hầu, cung phi các đế vương Nhật kế tiếp nhau; thật sự không cướp đoạt quyền nhưng cốt bảo vệ ngôi vàng. Không như Trần thủ Độ lập mưu cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng , sau đó bắt Lý chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1226, cướp ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần.
|
Nữ sĩ Murasaki Shikibu |
Thời kỳ Heian có vài sự kiện lịch sử văn hóa Nhật đáng kể là khi Michizane, một nhiếp chánh khi hoàng đế còn nhỏ tuổi sessho, lên chức nhiếp chánh khi hoàng đế đã lớn tuổi kampaku - độc tài dân sự , bị thất sủng từ chối làm đại sứ sang Tàu, lấy cớ là triều đại nhà Đường đang suy thoái , rồi sắp xếp để bải bỏ những chuyến Nhật tham quan ở Tàu. Vì dân Nhật có cảm tưởng là đã hấp thu hết mọi điều Tàu có thể cung cấp. Đã đến lúc, Nhật phải tiến tới hình thành toàn diện văn hóa riêng cho Nhật, căn cứ trên các tài nguyên đã nhận được.
Thứ hai là nữ sĩ Murasaki Shikibu , thị nữ của nữ hoàng Akiko, đã dùng lối viết Nhật kana ( thay vì dùng cách viết hoàn toàn Tàu ) viết ra truyện nổi tiếng Genji Monogatari - Chuyện của Genji ( Arthur Waley, New York, dịch ra tiếng Anh năm 1955 ) vào năm 1008, được xem là công trình văn chương Nhật lớn nhất . Khả năng mô tả những rung động con tim , tinh cảm sầu muộn khao khát thoáng đôi chút tinh thần Phật Giáo, những câu chuyện yêu đương của hoàng tử trẻ tuổi Genji thường được so sánh ngang hàng các truyện Jane Austen và Charlotte Bronte, các câu aware no mono - mọi điều ảm đạm , buôn bả của Genji rất giống câu Virgil , nhà văn thời Cỗ La Mã: Sunt lacrimae rerum et mentum mortalia tangun- Mọi điều là nước mắt và những câu chuyện yêu đương nhân sinh nghiệt ngã chấn động con tim .
Cuối thời kỳ Heian ( 1158-1185) là lúc giới chiến sĩ nổi lên và chiến tranh Gempei xảy ra. Vào thời kỳ này, trọng tâm uy quyền chánh trị ngã từ phía hoàng đế và quí tộc triều đình qua các thủ trưởng các gia đình chiến sĩ, từ kinh đô Kyoto qua cách dinh trang trong nước, từ những ai có chức tước cha truyền con nối và cai trị dưới thể thức một chánh phủ dân sự kiểu Tàu qua những lảnh tụ các thị tộc, mới hay cũ, đã chiếm đất đai và quyền uy cho họ bằng đao kiếm và cánh tay mặt mạnh mẽ. Theo truyền thống bảo thủ Nhật, mọi đặc điểm cũ vẫn tồn tại - hoàng đế , quí tộc , chức tước và kinh đô cũ -, nhưng chúng dần dần biến thành những tượng trưng trống rỗng, vì quyền uy đã lọt vào tay kẻ khác. Chiến tranh giữa hai đại gia đương thời lấy tên của từ danh xưng Tàu “ Gen“ mà tiếng Nhật địa phương gọi là “Minamoto “ và “ Hei “ , Nhật gọi là Taira. Phối hợp theo ngữ âm học thành “ Gempei “. Thời kỳ này, Nhật vẫn gọi là Heinan, nhưng lảnh đạo đã rỏ rệt chuyễn từ đại tộc Fujiwara qua các gia đình chiến sĩ. Dù rằng cả hai thị tộc Taira và Minamoto chia sẽ quyền hành ở các tỉnh, Taira trở nên lực lượng ưu thế ở Nhật , nhờ ảnh hưởng của Taira Kiyomori, trở thành thủ trưởng thị tộc mình năm 1153 và không có đối thủ, mãi cho đến khi ông chết năm 1181. Kiyomori được cựu hoàng đế Go- Shirakawa nghe lời, đã dùng vị trí ông ở triều đình, gia sản giàu có tăng gia và ảnh hưởng thị tộc của ông ở vùng Biển Nội Điạ. Vài công trình ông xây dựng đáng kể ra là hải cảng, đào vét kinh và phát triễn thương mãi với Trung Quốc, những giá trị vĩnh viễn cho Nhật bổn.
|
Bi kịch phổ thông Kabuki |
kabuki Chiến tranh Gempei đầu tiên xảy ra tháng 9 năm 1180 ở Ishibashiyama, và trận thứ nhì vào mùa thu năm 1183. Một hư cấu truyện hiệp sĩ vang danh ở Nhât kể ra là chuyện Yoshinak bị giết sau khi chống cự mãnh liệt ở cầu Uji , năm 1180. Chiến tranh Gempei giữa các thị tộc là nguồn chánh cho các tiểu thuyết truyền ký làm vui thích nhiều thế hệ cử tọa Nhật ở sân khấu bi kịch phổ thông- Kabuki hay ở các bi kịch cỗ điển- No, tạo ra một lý tưởng dũng cảm và trung thành cho hết thảy mọi dân Nhật. Ảnh hưởng của lý tưởng này thấm nhuần suy tư và lịch sử Nhật, kéo dài đến thế kỷ thứ 20. Tình trạng Nhật cận đại , lẽ dĩ nhiên, thay đổi mau lẹ theo phát triễn kỷ thuật. Nhưng ít nhất , mãi đến gần đây, những tên tuổi nổi tiếng thời Trung Cỗ Nhật có lẽ đã hiện diện thân thiết hơn trong trí óc dân Nhật, còn hơn cả những tên tuổi tương tự ở trí óc dân Tây Phương hiện đại như Philippe II của Pháp , Frederic Barbarossa, HenryII của Anh Quốc , Eleanor of Aquitaine , Richard I Coeur -de -Lion ( vua nước Anh từ 1189 đến 1199, khi chiến tranh Gempei vừa chấm dứt ), Saladin ( kẻ chống đối vua này thời Thập Tự chinh- Crusade thứ III ) và Walther von der Vogeldweide ở Đức .
|
Zen |
Đối với các chiến sĩ thời Trung Cỗ Nhật, đạo Zen - Thiền
( tiếng Tàu là Ch’an ) là đức tin tôn giáo phổ thông nhất. Zen căn cứ trên thủ lệ Phật giáo Ấn Độ thuở ban đầu tìm sự giải thoát trong mặc niệm. Nhưng ở Trung Quốc, Thiền hòa lẫn với nhận thức Lão giáo trên cá nhân , độc lập, hòa đồng với thiên nhiên và trật tự, làm ra môn phái Thiền - Ch’an. Nhà sư Eisai du nhập môn phái Rizai đạo Thiền đến Kamakura, bản doanh của Yorimoto năm 1191, khi Yorimoto còn sống. Đệ tử của Eisai là Dogen du nhập thêm một môn phái Zen khác môn phái Soto, năm 1227. Cả hai môn phái Zen này còn thịnh hành ngày nay ở Nhật .
|
Samurai |
Tinh thần hiệp sĩ - chivalry của chiến sĩ Nhật thường được liên kết với qui tắc danh dự hiệp sĩ Trung Cỗ Tây Phương . Điểm khác biệt lớn nhất là phẩm giá hiệp sĩ cho phụ nữ, không bao giờ có ở qui tắc Nhật cho đàn bà và những kẻ yếu đuối. Đông Phương Trung Cỗ Nhật không biết ca tụng tình yêu và thờ phụng tính trạng phụ nữ . Chính ngay ý tưởng nghiêng về nữ giới sẽ là một cú sốc lớn cho dân Nhật. Động cơ những cư xử dũng cảm và chịu đựng nhẫn nại không tưởng tượng nổi của hiệp sĩ Nhật có 2 nguồn : từ kiêu hảnh và danh dự và từ trung thành cho một lảnh chúa , còn trên trung thành đối với hoàng đế hay đối với tôn giáo. Hiệp sĩ Nhật thiếu khả năng của hiệp sĩ Trung Cỗ Tây Phương, nói lên sức chiến đấu cho một chính nghĩa lý tưởng.
Đối chiếu với sử Việt Nam chiến tranh Gempei giữa các “sứ quân “ xảy ra sau cả thời Đinh Bộ Lĩnh ( 924- 979 ) dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư , thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị Đổ Thích ám sát, Lê Hoàn ( 941- 1005 ), lên ngôi vua năm 980, đánh thắng quân nhà Tống xâm lăng, ở trận đường thủy Bạch Đằng và ở trân đường bộ Ải Chi Lăng, chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước; đối nội chống cát cứ địa phương xây dựng “ hạ tầng kinh tế “ , chánh trị thống nhất ; đối ngoại nhu thuận nhưng cương quyết. Thời nhà Lý , sau khi Lý Công Uẩn ( 974- 1028 ) , quê ở tỉnh Bắc Ninh cũ, con nuôi của thiền sư Lý khánh Vân , em Thiền sư Vạn Hạnh ( có truyền thuyết cho ông là con của Vạn Hạnh ? ) lên ngôi vua năm 1010, dời đô qua Thăng Long ( Hà Nột ngày nay ) là con đẻ hay con tinh thần của các vị cao tăng xuất sắc , thực sự là con ưu tú của trung tâm kinh tế Cổ Pháp - văn hóa Lục Tổ Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 10. Nhà Lý là thời Phật giáo cường thịnh nhất ở Việt Nam .
6- Thời kỳ Kamakura ( 1185- 1336 ) hay thời kỳ chánh phủ quân sự Shogun
|
Minamoto Yorimoto |
Sau khi thắng trận Dan-no- ura năm 1185 , Minamoto Yorimoto hiển nhiên làm chủ nước Nhật. Ông đạt địa vị này sau một kế họach lâu dài và suy nghĩ cặn kẻ, luôn luôn cũng cố địa vị ông trên phương diện chánh trị , nhưng lại trao quyền hành quân cho người khác , tỉ như cho Yoshitsune, có tài hành quân hơn ông . Tuy nhiên địa vị của ông vẫn còn ảo hơn là thực. Ông cố tâm làm cho mình không còn bị tấn công được nữa bằng các biện pháp hành chánh họa kiểu can đảm và đơn giản, kềm theo vài vụ ám sát thận trọng. Uy quyền của Yorimoto căn cứ trên giới chiến sĩ mới . Ông đắn đo thiết lập và duy trì trật tự ưu đải này . Cương vị vỏ sĩ samurai được định nghĩa và điều hòa, và không một ai có thể khẳng định địa vị - thân thế này, nếu không có phép của Yorimoto. Samurai thường là chiến sĩ cỡi ngựa mặc áo giáp khắp người và có cờ mang theo huy hiệu mình. Lẽ dĩ nhiên là có nhiều loại chiến sĩ - chinh phu khác , không có thân thế samurai, đi bộ chiến đấu và mặc áo giáp mỏng. Một giới nhỏ hơn và được ưu đải hơn là go- kenin hay “gia tộc đánh kính trọng”. Phải là thân thế samurai trước rồi mới được gia nhập go- kenin, nhưng thật ra hai loại nguồn gốc khác nhau: samurai xuất thân từ hàng ngũ quân sự , còn go-kenin là liên hệ thái ấp, phong kiến .
Ba bộ phận trung ương chánh quyền Kamakura là Samurai -dokoro , Mandokoro và Monchujo. Samurai - dokoro ( “ phòng Dịch vụ hay phòng Trật tự “) , thường được dịch là Ban Tùy Tùng- Người Hầu ( Board of Retainers ) . Ban này lo mọi việc làm nhiệm vụ quân sự, thưởng phạt các chiến sĩ; nhưng sau đó nới rộng quyền uy đến những lĩnh vực lớn rộng hơn, lưu tâm đến đời sống riêng tư của binh sĩ, hôn nhân của họ , bạn bè, tiêu khiển, tóm lại những gì liên quan đến lòng trung thành tối hậu đến cấp trên.Thời chiến tranh, Samurai-dokoro đảm trách chức vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Mandokoro hay Hội đồng - Council, cấp cao nhất làm chánh sách cho nền cai trị của Yoritomo. Đứng đầu Mandokoro là một giám đốc hay Shikken. Sau năm 1203, Hojo Tokimasa giữ chức vụ này và trở thành cha truyền con nối cho dòng họ ông. Bộ phận thứ ba là Monchujo hay Ủy Ban Điều tra - Board of Inquiry . Bộ phận tòa án này là tòa án kháng cáo cuối cùng , quản trị luật nhà Minamoto. Thoạt tiên giới hạn vào gia tộc Minamoto và các tùy tùng, nhưng vì luật này là luật duy nhất của đất nước Nhật đương thời, giải quyết mọi tranh tụng khắp xứ , ngay cả các nhà quí phái từ kinh đô, cũng khởi sự đến Kamakura xin xét xử . Năm 1190, Yoritomo được phong chức tước danh dự cao nhất là Nairan . Nhưng chức vụ ông khao khát là Shogun - Mạc Phủ hay Thống chế chỉ huy Quân sự ( Tướng Quân ) Suprême Military Commander, chỉ huy mọi lực lượng quân đội dưới danh nghĩa của hoàng đế Nhật. Nhưng Go- Shirakawa không muốn phong chức này cho ông . Mãi đến năm 1192 Go- Shirakawa chết, hoàng đế vừa ẩn dật Go- Toba mới phong cho Yorimoto chức Shogun.
Thật ra chức Mạc Phủ ,Tướng Quân- Shogun đã có từ thời chiến tranh xâm chiếm chống tộc dân Ainu. Hoàng đế Nhật phong chức vị này cho một tướng đặc biệt , giới hạn trong một thời gian thôi. Tuy nhiên, Yoritomo lại xem chức vị này là quyền cho ông và các tử tôn ông vĩnh viễn để cai trị Nhật, dưới danh nghĩa của hoàng đế . Chánh phủ ông và các con cháu kế tiếp được xem là bakufu - chánh quyền lều chỏng lính “Tent government” hay chánh quyền quân sự. Sau khi Yoritomo chết năm 1199, uy quyền Shogun -Mạc Phủ không còn nằm lâu dài trong tay gia đình ông nữa, mà lọt vào tay gia đình Hojo, trước tiên là Tokimasa, cha vợ Yoritomo, rồi đến con Tokimasa là Yoshitoki , và cháu là Yasutoki. Các ông họ Hojo này không thật sự là shogun , nhưng họ thật sự nắm quyền hành, nhờ giữ chức shikken- giám đốc Hội Đồng Mandokoro, Hojo Tokimasa dành được năm 1203. Lúc này, chức vụ Shogun trở thành hư vị, thường do một hoàng tử máu mũ hoàng đế nắm giữ. Thế nhưng dòng họ Hojo đã trung thành cũng cố địa vị, dù họ khởi sự bằng bạo lực và đã cống hiến cho Nhật bổn gần một trăm năm tương đối yên tĩnh. Một điều dị thường lạ lùng trổi dậy ở chánh phủ Nhật là một hệ thống cai trị gián tiếp phức tạp không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới . Ở Kyoto, hoàng đế trên danh nghĩa, nhường quyền cho một nhiếp chánh Fujiwara. Nhiếp chánh này lại nhường quyền cho một hoàng đế đi tu hay ẩn dật . Nhưng hoàng đế lại không thực sự nắm quyền mà trao lại trước hết cho một shogun quân sự mạnh mẽ; rồi thì lại do một nhiếp chánh dòng họ Hojo ở Kamakura thực sự cầm quyền dưới danh nghĩa của Shogun .
Suốt thế thứ 13 còn lại , các nhiếp chánh Hojo duy trì được hòa bình nội địa. Chính họ cũng nêu gương sống thanh đạm , căn cơ và thi hành trung thành chức vụ . Thế nhưng vào quý thư tư thế kỷ này , một đe dọa lớn xảy ra ở nước ngoài. Triều Tiên không đủ mạnh và Trung Quốc cũng không đủ tham vọng tấn công Nhật bổn. Nhưng dân Mông Cỗ là một điều khác hẳn , vì nhiệt tâm không nguôi Mông Cỗ chinh phục thật là không bờ bến. Triều Nguyên- Yuan hay Mông Cỗ chiếm lĩnh toàn thể Trung Quốc năm 1280, Sau khi đánh bại nhà Nam Tống - Southern Sung và nhà Nguyên theo lịch sữ Tàu trị vì ở Trung Quốc từ năm 1280 đến năm 1368 . Thật sự Mông Cỗ đã chiếm miền Bắc nước Tàu khoảng năm 1230 . Hốt Tất Liệt - Khubilai, Đại Hãn Mông Cỗ đã thiết lập kinh đô ở Bắc Kinh ( Bắc Bình ngày nay ) năm 1264. Triều Tiên không chống nổi và bị Mông Cỗ chiếm đóng. Năm 1268, Hốt tất Liệt gửi một sứ giả sang Nhật đòi Nhật phải thần phục. Triều đình Nhật muốn điều đình , nhưng Hojo Tokimune và hội đồng Quốc gia quyến định chống cự và gửi trả phái đoàn sứ giả về Tàu , không trả lời và không biết đến. Tướng già kinh nghiệm 60 tuổi Hojo Masamura được cử đảm trách công cuộc phòng thủ. . Một sứ giả Mông Cỗ khác bị đuổi cổ khỏi Nhật năm 1272: đúng là một tuyên chiến. Mông Cỗ tấn công năm 1274 dùng một lực lượng gồm 25000 quân Mông và quân Triều Tiên, đổ bộ ở Vịnh Hakata , phía Bắc Kyushu. Quân Mông là một kẻ thù đáng kinh sợ và có ưu điểm là quân thành thạo về cách sử dụng kỵ binh đông đảo cùng máy phóng - catapults phóng “ bom” lữa. Nhưng quân Mông không có đủ chỗ để hành quân . Quân Nhật một lòng dạ nhiệt tình bảo vệ xứ sở ,sử dụng kiếm - cung hửu hiệu đến nổi bẻ gãy được cuộc tấn công của quân Mông ít nhất là một phần nào trận đánh nhau lần thứ nhất .Đêm đến, quân Nhật rút lui vài dặm Anh sâu vào nội địa và núp sau các lũy đê đã dựng lên làm công sự phòng thủ trước đó. Giông tố đang nổi lên và các hướng dẫn viên Triều Tiên khuyến cáo là nên lên thuyền bỏ về, nếu không các thuyền binh sẽ bị nằm dưới gió. Vì một lý do nào đó, các chỉ huy Mông lo sợ Nhật tấn công trong cơn mưa gió , dù rằng quân Nhật thật tình đã mõi mệt không còn sức tấn công nữa. May mắn cho quân Nhật là quân Mông quyết định rút lui chỉ sau một ngày đánh nhau. Bảo tố sau đó đã đánh đắm nhiều thuyền binh Mông và nhiều binh sĩ chết chìm .
Năm 1281, Mông Cỗ lại tấn công Nhật lần thứ hai, quyết định hơn lần trước, tập trung 140 000 binh lính , trong số này có khoảng 100 000 người từ các tỉnh miền Nam Trung Quốc, Mông Cỗ vừa mới chinh phục xong. Quân Hoa Nam này không có lòng dạ đánh nhau dưới danh nghĩa của Mông Cỗ. Quân xâm lăng đổ bộ nhiều lần dọc bờ biển Kyushu , đặc biệt ở Vịnh Hakata. Nhưng nơi này Nhật đã xây đắp xong lũy tường đá ngăn cản Mông Cỗ dùng kỵ binh sở trường. Các chiến sĩ Nhật anh dũng chống cự và chận đứng quân Mông Cỗ hai tháng và không cho quân Mông Cỗ nới rộng đầu cầu bờ biển . Trong khi đó , thuyền chiến Nhật nhỏ hơn nhưng dễ dàng điều động hơn đánh thiệt hại nặng các thuyền binh Mông Cỗ ở vùng vịnh biển eo hẹp . Hai ngày 15 và 16 tháng 8 năm 1281 , đem đến giải thoát cho Nhật . Một trận bảo lớn gió thổi trên 120 dặm Anh, làm hư hại nặng hơn nữa đoàn chiến thuyền Mông Cỗ. Phần lớn binh lính Mông Cỗ và Hoa Nam để lại trên bờ biến thành mồi ngon cho các kiếm Nhật hoan hỉ. Nhật ca tụng bảo tố này là một câu trả lời cho cầu nguyện gọi là Thần Phong - Wind of the Gods , kamikaze . Bakufu duy trì chiến lũy Kyushu hơn 20 năm nữa, nhưng sau cuộc thất bại này , Mông Cỗ không bao giờ trở lại tấn công Nhật bổn .
Khác với ở Việt Nam, giặc Mông Cỗ xâm lăng 3 lần, trong thế kỷ thứ 13 bị đánh bại nảo nề các năm 1258 , 1285 và 1288. Lần thứ nhất vào tháng giêng 1258 , trước cuộc tấn công vào Nhật 16 năm . Bấy giờ , Hốt Tất Liệt đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc . Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng 40 000 người, gồm kỵ binh Mông Cỗ và binh lính người Tráng - Choang hay Thoán Vân Nam ( và Quảng Tây ? ) do tướng Ngột Lương Hợp Thai - Uryangquadai chỉ huy từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh ) đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên bên sông Cà Lồ . Thế mạnh giặc ban đầu khiến quân ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Sau đó bỏ luôn Thăng Long lại phía sau , nhưng triều đình và quân dân không nao núng . Giặc đóng ở Thăng Long trong một thành trống , khốn đốn vì thiếu lương thực. Ngày 29 -1- 1258 , vua Trần Thái Tông đem binh thuyền ngược sông Hồng, đánh bật quân địch khỏi kinh thành, giặc phải chạy theo đường cũ về Vân Nam . Cuộc xâm lăng thứ hai xảy ra cuối năm 1284 , do Thoát Hoan - Togan , con trai Hốt Tất Liệt và A Lý Hải Nha - Ariquaya chỉ huy , bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và quan binh nhà Trần tiêu diệt ở các trận Tây Kết , Hàm Tử , Chương Dương , Vạn Kiếp . Xâm lăng lần thứ ba cuối năm 1287 , đoàn thuyền Mông Cỗ chuyễn lương bị đánh bại ở vùng đảo Vân Đồn, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi- Omar bị mai phục đánh tan ở sông Bạch Đằng ngày 9-4 - 1288, tàn quân Thoát Hoan khốn đốn rút chạy ra biên giới bị chận đánh, đến ngày 19-4 1288 mới về đến Tư Minh, Trung Quốc .
Theo quan điểm Mông Cỗ , thất bại ở Nhật không lấy gì làm quan trọng cho lắm. Các hoàng đế Trung Quốc không bao giờ xem các đảo xa khơi này như là một mối đe dọa hay một giá trị đáng kể , chỉ là một danh dự, một cố gắng hoàn tất chinh phục. Thế nhưng chiến thắng đối với Nhật bổn là một giải thoát thần diệu. Đây là một cố tâm xâm lăng đất Nhật linh thiêng đầu tiên trong lịch sử Nhật và cũng là lần cuối cùng, mãi cho đến Thế Chiến thứ Hai. Cho nên không lạ gì kinh nghiệm chiến thắng này đã ấn tượng mạnh mẽ lâu dài trong trí óc dân Nhật và ký ức kamikaze được tái xuất để gọi tên các cuộc tấn công tự tử của các phi công Nhật. Theo Nhật, chiến thắng đánh bại quân Mông Cỗ là một trong những trận chiến tranh quyết định của lịch sử thế giới.
|
Nichiren Shonin (1222-1282) |
Khía cạnh tôn giáo , thoát khỏi ách Mông Cồ được nhấn mạnh trong niềm hân hoan nhà sư Nichiren ( 1222- 1282 ) tuyên bố là đã tiên tri cuộc ngoại quốc tấn công coi như thể là một trừng phạt các nhà lảnh đạo Nhật và một khải hoàn tương lai Nhật. Học thuyết của Nichiren là một phối hợp giữa các đức tin Phật giáo với chủ nghĩa quốc gia dân tộc nhiệt thành. Cá tính bốc lữa của ông tuồng như cảm hứng cho các tín đồ một thái độ cuồng tín để đối phó khủng hoảng đương thời. Ông tóm tắt trong câu Namumyoho rengekyo - Hoan hô Luật Phi thường của Kinh Phật Hoa Sen ( Lotus Sutra ). Ông tỏ ra ít khoan dung các môn phái khác như các lảnh tụ Phật Giáo lúc đó và chỉ trích chức quyền đã ủng hộ các giáo chức giả dối. Ông bị các nhiếp chánh Hojo kết án tử hình, nhưng thoát khỏi đao phủ khi một sét đánh đúng vào đao. Bị đày ra một đảo cô quạnh Biển Nhật, Nichiren đã viết: “chim khóc nhưng không nhỏ nước mắt . Nichiren không khóc, nhưng nước mắt Nichiren không bao giờ khô . “ Nichiren ở Kinh Phật Hoa Sen tự gán mình là một nhà tiên tri tương trưng cho lòng yêu mến Phật Giáo và Nhât Bổn , vì ở tên ông, nichi - mặt trời có cả hai nghĩa là Ánh Sáng của Sự Thật Và Đất Nuớc Mặt Trời Mọc và ren là hoa sen.
Nichiren không phải là giáo chức ( Kinh Phật ) nổi tiếng duy nhất bấy giờ. Chúng ta đã kể ra các môn phái Zen vào thời kỳ Kamakura. Ảnh hưởng hai nhà sư môn phái Đất Nước Thuần Khiết- Pure Land là Honen ( 1133 - 1212 ) và Shiran ( 1173- 1262 ) cũng rất lớn.
Các nhiếp chánh Hojo mất hết quyền uy, khi vùng Kanto nổi loạn và lảnh tụ Nitta Yoshida tiến đánh Kamakura, đánh bại nhiếp chánh Hojo cuối cùng một cách bất ngờ và đốt Kamakura ra tro. Trong 50 năm, từ 1136 đến 1392, có hai dòng muốn tranh nhau ngôi hoàng đế , dòng miền Nam ở một vị trí ở các núi phía Nam Kyoto, gọi là Yoshino và dòng Bắc ở Kyoto. Tướng Ashikaga Takauji thắng trận, đưa tới thời đại shogun Ashikaga : phần thứ nhất đến năm 1392 có tên là Nambokucho - Thời Kỳ Nam Bắc phân tranh ( như Trịnh Nguyễn ở Việt Nam ? ).
7 - Thời kỳ shogun Ashikaga ( Nambokucho 1336-1392, Muromachi 1392- 1572 ) , Thống Nhất Nhật bổn 1534- 1615.
|
bình đá thời Muromachi |
Mạc phủ - Tướng quân Ashikaga khác với Yoritomo là không bao giờ kiểm soát được toàn thể nước Nhật, chỉ nắm vững được 8 tỉnh miền Đông Họ phải luôn luôn mặc cả hổ trợ với các đại điền chủ và các lảnh chúa uy vũ. Thời đại dòng họ Ashikaga như vậy là một thời đại luôn luôn có chiến tranh với đồng minh tan rả và tái lập và trọng tâm quốc gia chuyễn xa khỏi kinh đô đến các điền trang lớn và các dinh trang phong kiến. Không có một triều đình tòa án- công lý mạnh mẽ, trung ương, phong kiến giúp Yoritomo cũng cố cai trị, và quyền lực hoàng đế yếu kém hẳn đi vì chia rẽ các triều đình Nam , Bắc . Tình trạng xáo trộn ở thời kỳ này thật rỏ rệt trên sự kiện là kinh đô Kyoto thay đổi chủ nhân 4 lần từ năm 1353 đến năm 1355. Sáp nhập hai triều đình Nam - Bắc năm 1392 làm ra thời kỳ phụ Ashikaga Muromachi, lấy tên một quận kinh đô Kyoto .
|
Nghệ thuật thời Muromachi |
|
Kiến trúc thời Nanbokucho |
Sau khi hai triều đình sáp nhập, trong nữa thế kỷ 15 không xảy ra chinh chiến lớn giữa các lảnh chúa địa phương. Nhưng không thể nói là đã có hòa bình, vì xảy ra nhiều bạo động điền địa quan trọng. Nông dân bất mãn lập ra các hội liên minh tên gọi là ikki để tự bảo vệ. Ikki biến thành một nổi loạn do một hội tạo ra, vì đói kém năm 1420 và tiếp theo cũng là đói kém và dịch tể năm 1425. Năm 1428, một đạo quân lớn nông dân nổi loạn đầu tiên tập trung ở gần kinh đô. Những nổi loạn như thế sau đó xảy ra thường xuyên và nhiều đám đông đổ xô vào các dinh thự, cư xá phá phách các tiệm rượu sakê, cầm đồ và chùa chiền, tất cả những ai cho vay nợ , mục đích xé bỏ chứng cớ nợ nần. Chánh quyền bakufu cố xóa bỏ nợ nhiều lần nhưng không có hiệu quả và quyền uy bakufu trở thành tối thiểu vào năm 1441. Hai năm sau, chính ngay kinh đô cũng bị dân nổi loạn tấn công. Cố gắng bi thảm vô ích cuối cùng là cuộc chiến Onin. Các năm 1467- 77, shogun thứ tám Yoshimasa bị các vấn đề chánh phủ không giải quyết nổi tràn ngập và thật ra ông ta muốn hưởng thụ nghệ thuật hơn là cai trị. Ông muốn rút lui ở tuổi 30 và hai dòng họ hùng cường Hosokawa và Yamana muốn vào chỗ trống này. Tháng 5 năm 1467, hai bên đánh nhau ngay chính ở thành phố Kyoto. Thành quả của nhiều tháng đánh nhau và lữa cháy thật tai hại cho kinh đô đẹp đẻ và văn minh Kyoto. Năm 1473, cả hai thủ lãnh Hosokawa và Yamana đều chết. Ouchi, thủ lảnh mới của Yamana rút lui khỏi Kyoto và đầu hàng Shogun.
Thời kỳ phân tán phong kiến dưới quyền Ashikaga trùng với thời gian kinh tế Nhật phong kiến phát triễn mạnh . Thời phong kiến thứ nhất dưới quyền Yoritomo thời kỳ Kamakura, rồi đến thời các nhà nhiếp chánh Hojo đã thấy chuyễn động hàng hóa và dân gian nhiều hơn hẳn thời Nara ban sơ vào thế kỷ thứ 8 và và bắt đầu Heinan vào thế kỷ thứ 9. Thời kỳ Kamakura khéo léo kỷ thuật đã làm lan tràn chế tạo đồ gốm , giấy và đúc sắt. Taira Tadamori và Kiyomori cũng đã để ý tới giao thương với Trung Quốc và đã đề xướng dịch vụ này bằng cách ra công cải thiện các tiện nghi ở các hải cảng Biển Nội Địa Nhật. Nhưng tăng thêm giàu có và đời sống dân gian , nổi bật nhất là vào thời kỳ Ashikaga. Một sự kiện đủ chứng tỏ điều này ; năng xuất nông nghiệp tăng hai ba lần hơn tại nhiều nơi trong nước, nhờ cải tiến các phương pháp canh tác và tổ chức thành các đơn vị kinh tế lớn hơn mới nông trang phong kiến. Kinh tế vẫn tiến triễn , nội địa hay giao thương với Trung Quốc, dù điều kiện rối loạn. Chiến tranh ở thế kỷ thứ 14 và thế kỷ thứ 15, đã tạo ra yêu cầu ở nhiều vùng Nhật xa xôi và làm giao thông tốt hơn là một thiết yếu tại đất lành cũng như trên biển cả . Thủ công nghệ mở rộng để thõa mãn đòi hỏi chiến tranh và khi hòa bình, làm nông cụ hay những đồ xa xỉ tỉ như tơ sợi, đồ sơn - lacquers và nhiều đồ khác mà các lảnh chúa nay đủ sức mua sắm . Cùng lúc , tình trạng rối loạn cũng khiến cho các thương gia và các thủ công kết hợp nhau để cùng bảo vệ nhau, theo một hệ thống gọi là za hay phường hội - guilds, đã có từ thế kỷ thứ 12 , nay phát triễn mạnh. Za có nghĩa là một chỗ ngồi bán hàng ở chợ búa, thường liên kết với hội chợ đền thờ - chùa chiền dưới sự che chở của một thể chế tôn giáo mạnh. Xếp đặt cọng sinh giữa các tu sĩ và các thương gia có lợi cho cả đôi bên. Thương gia có lợi trả lệ phí cho chùa và khi cần, để chùa giúp đở khi họ thưa kiện lên tòa hay bakufu là quyền lợi họ bị xâm phạm. Tài liệu còn ghi rỏ là chùa giúp đở thu hồi nợ . Chẳng hạn theo thời gian, za bán áo quần bông vải liên kết với đền thờ Gion , za làm men rượu với đền thờ Kitano . Các thủ kho, đồng thời là các chủ tiệm cầm đồ liên kết với thể chế tôn giáo Enryakuji ở Núi Hiei , một trong những tu viện mạnh nhất Nhật bổn. Những đại gia cũng đóng vai trò đỡ đầu tương tự: Bojo đỡ đầu các nhà làm giấy, Kono đỡ đầu các thủ công làm vàng lá và Kuga đỡ đầu phường hội” đĩ quý phái - courtesans”. Độc quyền địa phương bán một vài loại đồ đạc là một đặc điểm của phường hội Trung Cỗ Âu Châu và yếu tố này cũng thực thi ở Nhật bổn. Cũng có nhiều chứng cớ tỏ ra là các phường hội họp lại nhau, nhưng chưa bao giờ mạnh như đại phối hợp Liên Hội-Hanseatic League ở Bắc Âu. Giao thương vói Trung Quốc tỏ ra rất lợi. Nhật nhập cảng sắt, tơ sợi , thuốc men và các xa xĩ phẩm như sách vỡ, tranh ảnh, đồ thêu ; xuất cảng đồng và lưu huỳnh và một vài hàng xa xỉ Nhật chế tạo giỏi tỉ như quạt, đồ sơn, và khí giới đặc biệt là kiếm và bộ giáo - rìu chiến . Năm 1483, Nhật bán sang Trung Quốc 37 000 kiếm. Giao thương Trung Quốc là do các thương gia, thường cũng là hải tặc, giặc cướp biển - pirates, nhưng ranh giới giữa hai nghề này ít khi vạch rỏ ở bất cứ nơi nào trên Cựu Thế giới. Sau năm 1469, một gia tộc là Ouchi, ngự trị ở miền Tây đảo lớn nhất Nhật, độc quyền buôn bán với Trung Quốc, mãi cho đến khi họ bị một chư hầu lật đổ năm 1557. Shogun, bakufu thật sự không dính dáng đến thương mãi. Phần lớn thương mãi do các chùa chiền Phật giáo Nhật đảm trách , chứng minh vai trò quan trọng của Phật giáo ở xã hội Nhật. Nhà sư -chính khách Muso Soseki, môn phái Zen, tổ chức một chuyến thuyền sang Trung Quốc năm 1342 , dưới sự hổ trợ của shogun đầu tiên là Askhikaga Takauji. Tiền lời chuyến này đã giúp ông xây dựng đền chùa Tenryuji temple. Tu viện Nhật không những tài trợ các chuyến thương mãi mà còn phát triễn hải cảng nữa. Chẳng hạn, đền chùa Sumiyochi kiểm soát quyền lợi hải cảng Sakai và tu viện cỗ Kokufuji ở Nara quyền lợi hải cảng Hyogo ( nay là Kobê ) .
Thời kỳ Shogun Ashikaga từ năm 1378 đến năm 1490 được mệnh danh là thời đại hoàng kim của nghệ thuật Nhật Bổn. Mạc phủ - tướng quân Ashikaga có bộ mặt khác hẳn các Mạc phủ Yoritomo và các nhiếp chánh Hojo. Khi Ashikaga chiếm địa vị chủ trì, trọng tâm quốc sự một lần nữa chuyễn về vùng Kyoto. Đời sống văn chương và nghệ thuật luôn luôn vây quanh triều đình nhưng ít hấp dẫn shogun đầu tiên. Nhưng dòng Shogun Ashikaga thứ ba Yoshimitsu trở thành shogun năm 1368 và shogun thứ tám Yoshimasa nhận chức năm 1443 và chết năm 1490, cả hai đều ham mê nghệ thuật và rất hào hiệp bảo trợ nghệ thuật. Yomimitsu lãng phi chi tiêu cho các xẩy cất đến nổi gần xài hết ngân khố. Yoshimasa nhiều khả năng và sáng tạo hơn như thể một nhà phê bình và ân nhân tinh tế của kiến trúc, hội họa và bi kịch. Đương thời, ông là một công cụ chánh yếu làm thành thời đại được biết là thời đại nghệ thuật Nhật to lớn nhất.
Bản doanh của Ashikaga là ở quận Muromachi của Kyoto, như chúng ta đã biết và năm 1378, 10 năm sau khi ông lên chức Shogun, Yoshimitsu xây dựng Hana- no - Gosho , Hoa Dinh- Palace of Flowers , có nhiều vườn lộng lẫy. Ông tiếp tục xây cất một dinh thự xa hoa làm nhà ẩn dật tôn giáo, di dưỡng tinh thần ở Kitayama, dựng lên Đình tạ nổi danh Kinkaku hay Đình tạ Vàng Kim - Golden Pavilion, bị lữa đốt cháy rụi năm 1952 và phục hồi lại y hệt như xưa.
Ginkaku hay Đình tạ Bạc - Silver Pavilion , ở phía Kyoto khác do Yoshimasa ủy nhiệm làm một thành phần nơi ông định ẩn dật Higashiyama. Đất đai xung quanh và các vườn hoa là những cảnh trí trầm tư và hoạt động sáng tạo cho những nhân vật nổi tiếng ở nhiều lảnh vực nghệ thuật và bi kịch - Naomi, Geiami, Soami , Kanze và họa sĩ tài ba Sesshu , vào những năm cuối cùng thế kỷ thứ 15. Từ ngữ Bạc nhắc đến vài trang trí dự trù chưa bao giờ thực hiện. Đình tạ yên tĩnh và tự kiềm chế, dựng lên ở rìa một hồ nhỏ, có đá bước qua suối, tiểu đảo và cầu cũng bằng đá do các lảnh chúa khắp Nhật đem tới. Trên đất là một đền thờ và gần đó là một gò đồi cát trắng Đắp cao thành hình nón làm ra một nền ngắm trăng, nền vọng nguyệt - moon viewing platform. Ngay sau đền là một xây cất nhỏ bốn chiếu- mats rưỡi ( phòng ốc xưa cũ Nhật do bằng tiêu chuẩn tatami - chiếu đan cỏ khô 6x3 bộ - feet Nhật ). Đây là phòng ốc trà thất lễ lạc - tea ceremony room Nhật đầu tiên .
|
Trà Đạo Nhật |
Tính chất khiêm tốn và lặng lẽ của trà thất Nhật đáng bình phẩm thêm. Ai bước vào trà thất phải để ra ngoài long trọng, tráng lệ và hoàn cảnh thế giới. Vì cửa phòng thấp nên chỉ vào được bằng tay và qùi gối thái độ khiêm nhường, không được lộ ra kiếm dao các samurai thường đeo. Khi đã vào khách viếng phải cư xữ hợp nghi thức và dè dặt , nhưng bên trong thoải mái khi ngắm nghía, phê bình ấm, bình, chén cỗ dùng cho buổi lễ hay tán thưởng cách cắm hoa đơn giản hay một cuộn sách - giấy treo. Thông thường , khách không bình phẩm áo kimono hay tài khôn khéo của bà chủ tiệc làm lễ đơn giản trong thông thạo - simple in neatness ( simplex munditiis). Nhưng khách cần chú ý tới cách bà sử dụng tay và mọi cử chỉ, khi bà trình bày những động cử phong tục sửa soạn và dâng mời trà xanh , gạt cả mỗi sủi bọt con con, tuần tự cho mỗi khách. Những cử động này y hệt tiến triễn và chòng chành một lối vũ lễ nghi. Cả một phương cách, dù lạ lùng và tẻ nhạt đối với dân Tây Phương , nhưng đầy ý nghĩa đối vói mọi dân Nhật. Phối hợp sự thoát ly ra khỏi mọi lo lắng trên thế giới, thưởng thức nghệ thuật, trò chuyện trí thức, tôn trọng một lề lối phẳng lặng và mến thương hay lễ nghi- mọi điều này trong khung cảnh trầm tư Phật giáo- giúp cho linh hồn Nhật một cảm giác tươi mát và hạnh phúc. Một vườn rêu rong phải hiện diện trước mặt một trà thất .
|
Kịch Saragaru |
Shogun Yoshimitsu khuyến khích phát triễn bi kịch no, một hình dạng cỗ điển sử dụng phối hợp các vật liệu khiêu vũ, âm nhạc và thơ thành một loại mới và đặc thù. Tính chất no cũng giống như tính chất neng Trung Hoa, có nghĩa là một kẻ am hiểu khéo léo. Các kịch no là những diễn xuất am tường phối hợp thi ca hát, kịch điệu bộ câm - mime, và vũ điệu chậm kềm theo nhạc y phục chi tiết và mặt nạ. Đề tài lây trong vương quốc huyền thoại, lịch sử và ảo thuật. Một phần biểu diễn no có tên là saragaku hay “ kịch khỉ - monkey plays “ mộy yếu tố hề thô tục liên kết với các lễ nghi sinh đẻ. Sau đó yếu tố hài kịch tồn tại riêng rẻ ở kịch kyogen ,giữa các khoản nghỉ trình diễn đứng đắn kịch no. Đặc điểm này tương tự tiến trào song song của bi kịch và hài kịch ở Hy Lạp cỗ. . Ở cả hai ca Nhật và Hy Lạp , hài kịch phụng sự mục đích nghệ thuật cống hiến một an ủi nhẹ nhàng, sau khi chức năng tôn giáo của hài kịch đề xướng mẫn đẻ - fertility và đẩy xa các ảnh hưởng ma quỉ, đã bị quên lãng. Ngày nay ở Nhật, kịch no dành cho những kẻ lõi đời, khôn ngoan. Người Nhật trung bình thích xem kịch “ máu chảy và sét đánh” trực tiếp kabuki hơn.
Thời kỳ Sengoku-Jidai , thời kỳ đất nước chiến tranh 1534 -1717, cũng là thời kỳ Nhật Thống Nhất. Vài thống nhất xúc động và trung thành đã luôn luôn có mặt nuôi nấng bằng huyền thoại quốc gia và sau đó bằng các lý tưởng Khổng giáo. Phát triễn văn chương và tư duy ở thời kỳ Heian cũng đã phát sinh cảm giác thống nhất văn hóa. Một đôi chút thống nhất chánh trị cũng đã do Minamoto Yorimoto rèn luyện ra, sau các chiến tranh tộc bộ ở thế kỷ thứ 12. Nhưng tranh chấp giữa các lảnh chúa đã làm chiến tranh liên miên khắp kéo dài đến 250 năm. Cuối thế kỷ thứ 16, Nhật trở thành thống nhất và thanh bình, theo cảm giác toàn diện và dứt khoát hơn. Niên đại này gần trùng điệp với niên đại cũng cố thành quốc gia các nước ở Âu Châu, đặc biệt thời các vua Anh Tudor khôn khéo tập trung quyền lực. Nhưng ở Nhật, kiến trúc sư công cuộc thống nhất là các tướng chứ không phải các vua. Thống nhất đưa Nhật vào một thời kỳ thanh bình và đồng nhất lịch sử Nhật, thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, kéo dài cũng 250 năm. Dù nội chiến ở thời kỳ Aghikaga và chiến tranh Onin đẩm máu vô ích , cũng có nhiều yếu tố tăng trưởng và phát triễn tích cực. Tăng trưởng đáng kể nội thương và ngoại thương , các thị trấn thương mãi bừng lên , cải tiến nông nghiệp, đưa tới những thay đổi lớn khung cảnh quốc gia. Ranh giới giai cấp giữa các chiến sĩ quí phái một mặt và dân giả bình thường , các con buôn , các nông dân mặt khác trở nên mù mờ hơn. Mọi điều này dẫn tới suy thoái phong kiến, nhờ những vùng rào - đất lọt vào giữa, tự túc và thù địch lẫn nhau, làm cho thống nhất xứ sở có thể làm được và mong muốn. Đáng kể là cuối chiến tranh Onin, chỉ còn khoảng 20 lảnh chúa địa phương lớn - daimyo. Những thay đổi xã hội này cũng xảy ra ở Âu Châu, cùng thời gian. Tuy nhiên, trên một khía cạnh , lịch sử Nhật lại theo một con đường khác. Thống nhất hoàn tất không phải bằng cách bải bỏ phong kiến , nhưng làm “ đông giá “ phong kiến, sử dụng vài yếu tố phong kiến nên đồng thời cũng làm Nhật cô lập với ảnh hưởng bên ngoài có thể tạo ra những thay đổi mới ( chiếu theo sách Đông Á, Đại truyền thống - East Asia, The Great Tradition của Reishauer và Fairbank ).
Thay đổi mau lẹ và làm giật mình ở Nhật vào cuối thế kỷ thứ 16 , không thể xảy ra nếu không có sự cố súng hỏa mai - musket. Trên một khôi hài lịch sử, sự cố súng hỏa mai gắn liền với Thiên Chúa giáo đến Nhật . Năm 1542, một thuyền Bồ Đào Nha - Portuguese trên đường tới bờ biển Trung Quốc bị chìm ở bờ biển Kyushu và các súng hỏa mai trên thuyền sau đó được Nhật sao chép khéo léo. 7 năm sau năm 1549, giáo sĩ Dòng Tên - Jesuit tiền phong Francis Xavier lên đất Nhật ở Kyushu và khởi sự công trình truyền giáo, rất thành công. Đây không phải là lần thứ nhất và lần cuối Tây phương đem tới một xứ không Tây phương ,những lực lượng uy vũ và bùng nổ các sáng kiến và ý nghĩ Tây Phương, thường mâu thuẩn trái ngược nhau. Tuy nhiên ở Đông cũng như ở Tây, các mâu thuẩn không được cảm giác vào thế kỷ thứ 16. như thể chúng ta cảm giác chúng vào thế kỷ thứ 20.
Dòng Tên Cơ Đốc giáo La Mã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc tiếp xúc thời lịch sử mới bắt đầu giữa Âu Châu và Đông Á. Một trong những lý do sự hửu hiệu này là vì Dòng Tên là một dòng tu cận đại,vừa mới được thiết lập, nhấn mạnh đến hiểu biết hàn lâm, khoa học và thực tiễn và một kỷ luật cao cấp. Thiết lập viên Dòng là một nhà quí phái Tây Ban Nha, sinh viên đại học Ba Lê, tụ tập quanh ông một nhóm người khả phi thường. Khi Đức Giáo Hoàng chấp nhận đề nghị nhóm phụng sự đặc biệt cho Giáo Hội bất cứ nơi nào trên thế giới, họ lập ra Hội Dòng Tên - Society of Jesus. Xavier trở thành nhà truyền giáo cho Viễn Đông. Tiến triễn Cơ Đốc Giáo ở Nhật do Xavier khởi xướng là nhờ hai cơ may. Thuở ban đầu, Nhật bổn và Bồ Đào Nha rất thiện cảm nhau . Dân Bồ Đao Nha thích dân Nhật hơn bất cứ một dân Á Châu nào khác, có lẽ vì họ thiện cảm quy tắc danh dự Nhật. Phía Nhật, dân Nhật cảm phục Dòng Tên vì họ thổ lộ một kỷ luật tương tự các nhà sư Zen giỏi nhất . Rất nhiều daimyo chuyễn đạo là những tín đồ Thiên chúa giáo thành thực và trung thành . Công trình truyền giáo Dòng Tên thành công quá sức, khiến cho các chức quyền Phật Giáo hoảng sợ , dùng đủ áp lực trên Chánh phủ đuổi các giáo sĩ Dòng Tên ra khỏi kinh đô . Họ rút lui về Sakai , một thành phố độc lập, nhưng không có bao nhiều ảnh hưởng trên giới buôn bán. Năm 1582 , Hội Dòng Tên ở La Mã cho biết ở Nhật có 150 000 tín đồ và 200 nhà thờ .
Vào thời kỳ này , như đã nói trên, Nhật bổn chín mùi cho Thống Nhất, nhưng nhiệm vụ không hoàn thành một cách dễ dàng đâu. Ba kẻ mạnh - Oda Nobunnaga ( 1634- 1582 , Toyotomi Hideyoshi( 1536-1598 ) và tokugawa Ieyasu ( 1543- 1616) đã thực hiện thống nhất Nhật Bổn. Nobunaga tự tử chết năm 1582 thân thể bi đốt cháy, bị một tì tướng Akechi đánh úp bất thình lình lúc thăm viếng nghĩ ngơi ở đền thờ trong Kyoto. Một năm sau khi Nobunaga chết, Hideyoshi đánh bại một tướng trung thành với Nobunaga là Shibata. Bấy giờ Hideyoshi đã kiểm soát , gián tiếp hay trực tiếp 30 trong số khoảng 60 tỉnh Nhật . Hideyoshi giảng hòa cùng Tokugawa Ieyasu , một đồng minh phía đông và khởi sự cũng cố địa vị và tiến hành một chánh sách hòa bình. ông thiết lập một lâu đài ở Osaka , gần kinh đô, vì ông cho đó là nơi tốt nhất để kiểm soát Nhật, ở vị trí tu viên thành lũy Ikko tại Hoganji , Osaka đã bị phá hủy. Ông đã ra lệnh nghiên cứu điền thổ , đất dai , một bước tiến tương đương Sách Địa bạ Anh của Nhà Chinh phục William ( năm 1086 )- Domesday Book of William the Conqueror. Công cuộc nghiên cứu bắt đầu năm 1583 và tiếp tục đến năm 1598, năm Hideyoshi chết; lúc này đã có địa bạ của tất cả mọi tỉnh Nhật. Năm 1587 , Hideyoshi thắng trận quyết định gần sông Sendai, chống Shimazy , một daimyo ở cực nam Satsuma. Trở về căn cứ , Hideyoshi ban hành một biện pháp bình định gọi là ” Săn Bắt Kiếm Taiko- Taiko’s Sword Hunt” , có hai mục đích : tịch thu mọi kiếm, ngoại trừ kiếm của samurai khiến cho nông dân, nông dân quý tộc, tu sỉ nhà binh không còn khí giới nổi loạn và cũng để phân biệt rỏ ràng giữa giới samurai và giới nông dân. Nhưng còn đồng bằng Kanto và cực Bắc, cần bó buộc phải lệ thuộc. Hideyoshi đem 200 000 binh lính vây hảm thành Odawara, trung tâm Hojo ở vùng Kanto . Odawara đầu hàng ngày 4 tháng tám năm 1590. Daimyo chánh miền Bắc được kêu tới và chịu phục tùng. Cuối năm 1590, Hideyoshi đã làm chủ cả nước Nhật.
Ở Việt Nam, vào thời kỳ này , phải kể đến Thiên Nam tứ chí lộ đồ và Hồng Đức bản đồ xuất bản thời vua Lê Thánh Tông( 1460- 1466 ) còn lưu trữ đến ngày nay . ( Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng - Dòng Việt, 2000 )
Thời Hideyoshi, Thiên Chúa Cơ Đốc Giáo tiếp tục thịnh vượng như thời Nabunaga. Thành phố Nagasaki thực tế do các giáo sĩ Dòng Tên cai quản và thương mãi Nhật - Bồ Đào Nha tăng gia. Nhưng năm 1587, bổng nhiên các nhà truyền giáo nhận được một pháp lệnh cấm truyền đạo Thiên Chúa và họ phải rời bỏ Nhật trong vòng 20 ngày. Hai lý do pháp lệnh nêu lên là vài đền thờ Phật bị phá hại và người Nhật bị bán làm nô lệ. Một số giáo sĩ đáp thuyền trở về xứ. Nhưng chừng 100 giáo sỉ ở lại và trốn núp bí mật do các giáo dân mới nhập đạo che chở, giúp đỡ. Theo thời gian họ nhận xét là việc cấm đạo ít khi thi hành. Số tín đồ nhập đạo tiếp tục tăng mau và năm 1596 , tổng số tín đồ lên đến 300 000 người , trong đó nhiều tín đồ thuộc giới thượng lưu quý tộc Nhật. Thanh niên Nhật bắt đầu bắt chước thời trang Bồ Đào Nha, có khi đeo cả chuổi tràng hạt và thánh giá. Một số từ Bồ Đào Nha được ngôn ngữ Nhật thâu nhận, tỉ như pan - bánh mì , karuto - carto bài tây, tempura ( tôm chiên )- quattor tempura. Một đảo ngược chính sách tái diễn, năm 1597, một năm trước khi Hideyoshi chết. Trong một cơn giận, ông ra lệnh tra tấn và giết chết 26 tín đồ Thiên Chúa giáo, 6 giáo sĩ dòng Franciscan Tây Ban Nha , 4 giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha và 17 dân Nhật tin đạo .
Năm 1550, Bồ Đào Nha thành lập một giáo đoàn dòng thánh Đa Minh - Dominicains ở Malacca ( nay thuộc Mã Lai Á - Malaysia ) phái giáo sĩ Gaspar da Cruz đến hải cảng Hà Tiên giảng đạo, nhưng không có kết quả gì, vì dân chúng tin tưởng ở Ấn Độ giáo , Phật giáo , và không ưa chuộng những gì mới lạ của Âu Châu. Giáo khu dòng Đa Minh cũng phái hai giáo sĩ Y Pha Nho ( Tây Ban Nha ) đến Cao Mên, nhưng họ bị dân chúng bạc đải, buộc phải trở về . Năm 1593, ba thuyền chiến, tàu chở 120 binh sĩ Y Pha Nho đến Cao Miên viện binh cho Miên chống Tiêm La ( Thái Lan ngày nay ). Các tàu này ghé lại Hội An - Đà Nẳng ? ( Touron - Tourane) tiếp tế lương thực . Người Y Pha nho gây lộn và người Nhật, có người Việt ủng hộ , đốt một chiếc tàu , hai tàu kia chạy ra biển , để lại trên bờ biển giáo sĩ Diego Aduarte và một tu sĩ khác. Trong thời gian buộc cư trú ở xứ Đàng Trong, có lẽ Aduarte đã bắt đầu công cuộc truyền giáo . Đó chỉ là một phỏng đoán cho đến khi các giáo sĩ Dòng Tên từ Goa , Malacca tập sự ở Macao đến Hội An - Faifo mới thu được kết quả .( Phan Khoang : Việt sử xứ Đàng Trong, 1967 )
Sự cố cuối cùng của Hideyoshi là xâm lăng Triều Tiên - Cao Ly, một chiến địch động viên 250 000 người. Chiến dịch khởi đầu tháng tư năm 1592, chiếm hải cảng Pusan và thủ đô Hán Thành - Seoul dễ dàng, tiến tới tận biên giới Mãn Châu và toàn thể xứ Triều Tiên. Sau bất ngờ đầu tiên, Cao Ly phản công bằng du kích. Đau ốm và mùa đông lạnh lẻo đã làm chết 1/3 binh lính Nhật. Trung Quốc tuyên bố Cao Ly là chư hầu Tàu và hoàng đế nhà Minh xua một đạo quân đánh Nhật ở Cao Ly. Nhật phải rút lui . Nhật dùng dằng giữa nên hòa hay nên chiến, khi sứ giả triều Minh đến thương lượng ở Kyoto, muốn trao danh vị Hoàng đế Nhật cho Hideyoshi. Nhưng Hideyoshi mất bình tĩnh với sứ giả Minh, sửa soạn một chiến dịch mới năm 1597. Trung Quốc gửi thêm một đạo quân và quân Nhật, dù đã được tăng viện , bắt buộc phải tháo lui về bờ biển phía Nam Cao Ly. Nhờ viện binh Nhật từ Satsuma tới, Nhật giữ được Pusan và thắng nhiều trận đánh quânTàu và quân Cao Ly. Chiến tranh bất phân thắng bại này , kéo dài cho đến khi Kideyoshi chết, năm 1598. Nhật lấy cớ này để rút quân khỏi Cao Ly và chấm dứt chiến tranh .
Kế tiếp Hideyori là Tokugawa Ieyasu, sinh năm 1543 từ một họ daimyo nhỏ là Matsudaira, giữa hai họ lớn Imagawa và Oda. Khi Hideyoshi mất , ông đã có uy quyền lớn nhất ở Hội đồng Nhiếp chánh, có nông trang cho lợi tức 2 500 000 koku , 4 lần cao hơn tài sản của 4 thành viên Hội đồng. Tưởng cũng nên biết là thái ấp - đất phong của 5 thành viên Hội đồng chiếm 1/3 giá trị tất cả đất phong ở Nhật bấy giờ. Mục đích chánh của Ieyasu là gìn giữ nền thống nhất Nhật. Vị trí ông đạt được có nhiều người thèm muốn và ganh tị. Năm 1600, Uesugi nổi loạn ở miền Bắc, nhưng bị hai daimyo trung thành với Iweyasu kiềm chế . Ieyasu lo ngại Mitsunari hơn, vì ông này thu thập nhiều đồng minh và tiến đánh từ phía Tây. Mitsunari bị đánh bại ngày 21- 10-1600 tại đèo Sekigahara, giữa đồng bằng phía đông Hồ Biwa và đồng bằng bao quanh thành phố Nagoya. Dù rằng các chỉ huy các trung đoàn là cựu quân nhân cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và binh lính đông hơn, nhưng chỉ huy Kobayakawa trở cờ theo Ieyasu, bất ngờ đánh vào các chỉ huy theo Mitsunari . Chiến thắng này của Ieyasu là một trận chiến khốc liệt , tàn sát dã man và cũng là trận chiến cuối cùng của nội chiến lâu dài và kiệt quệ trên đất Nhật cho đến ngày nay .
Năm 1614 , Ieyasu quyết định không cho dòng họ Hideyoshi tiếp tục chế độ hái ấp , vì các thái ấp có thể biến thành nơi quy tụ các người bất mãn. Không một daimyo nào cứu trợ con trai trẻ tuổi của Hideyoshi, nhưng ronin - nhóm samurai không chủ lại tập hợp ủng hộ Hideyoshi trẻ , tăng đoàn quân trú phòng lâu đài Osaka lên đến 90 000 người . Hidetada, vâng lệnh cha Ieyasu, tiến đánh cứ điểm này , không phá nổi phòng thủ , nên mùa đông 1614 giảng hòa với các cố vấn cho Hideyoshi, nhưng mùa hè năm sau bội ước và tấn công lại. Bị tràn ngập, Hideyoshi tự tử; mẹ là Yodogimi bị giết chết dưới tay một kẻ giữ thành, hầu tránh khỏi bị bắt. Nay Ieyashu thành lảnh tụ nước Nhật , không còn ai thách thức nữa. Ông đã tái lập thể chế bakufu và năm 1603 ông đã được hoàng đế phong làm shogun.
Phần II
Thời kỳ Mạc Phủ, Shogun Tokugawa,
thổi lại làn gió đổi thay ở Nhật
Một đêm khuya năm 1719 , Shogun thứ 8 Yoshimune thức dậy thảo luận sôi nổi cùng Nishikawa Joken, một thông ngôn cho các thương gia Hà Lan ở Nagasaki. Ông muốn Nishikawa giải thích quả địa cầu Nishikawa xây dựng và muốn biết chi tiết các kỳ diệu trên trời một viễn vọng kính Hà Lan tiết lộ . Cũng như mọi nhà cai trị Tàu và Nhật có tinh thần trách nhiệm, Yoshimunde đang lao tâm vì những lý do tôn giáo muốn lịch Nhật càng chính xác càng tốt. Hầu gieo và gặt lúa đúng ngày tháng và hài hòa giữa Trời và Đất được duy trì. Công trình Shogun hỏi đã được Cha Cơ Đốc Adam Schall biên soạn cho triều đình Tàu ở Bắc Kinh, một thế kỷ trước. Thành quả của những lưu tâm này là Yoshimune bải bổ việc cấm nhập khẩu các sách vỡ ngoại quốc với điều kiện các sách vỡ không dạy Thiên Chúa Giáo. Phong trào thu nhập kiến thức Tây Phương hay “ Hà Lan “ mệnh danh là rangaku ( ran là chữ viết giữa của từ Ho-ran-da hay Hà Lan và gaku có nghĩa là nghiên cứu hay một ngành học hỏi ), đã hiện diện lén lút nay mở rộng toang và tiến bộ lớn lao .
Dân Nhật đã học và cải tiến từ dân Bồ Đào Nha cách làm súng đạn, đại bác , bản đồ, nghề hàng hải, các vấn đề hải quân tổng quát và có lẽ quan trọng hơn hết là sự hiện điện và tính chất thế giới Âu Châu. Nhưng Tây phương đã tiến mạnh mẽ hơn nhiều giữa lúc dân Bồ Đào Nha đến Nhật cuối thế kỷ thứ 16 và thời đại shogun Yoshimune ( 1716- 45 ), đầu thế kỷ thứ 18. Giữa thời kỳ này là thành công của Galileo , những thảo luận rung trời lỡ đất của hội Hoàng Gia - Royal Society ( thành lập năm1662), và viện Hàn Lâm Khoa học ( thành lập năm 1666) , những thí nghiệm hóa học của Robert Boyle , và công trình lý thuyết vững chắc của Sir Isaac Newton. Một khi cái nhìn toàn cầu về vật lý học đã thực hiện thì áp dụng qua các ngành khoa học xã hội cũng được chu toàn. Sau Thời đại Ánh Sáng - Enlightenment Age, Thế giới hoàn toàn đổi thay , không còn như trước hay trở lại nữa.
Trước đó, các học giả Nhât học kỷ thuật Tây Phương bị cầm tù hay bị giết chết . Các lợi dụng ưu điểm tự do mới Yoshimune cho phép rất thực tiễn. Trước tiên họ không bị lý thuyết hấp dẫn . Họ học qua ngôn ngữ Hà Lan những đề tài thực tiễn như thực vật học - botany , y khoa, môn chế tạo pháo kích, rèn luyện quân lính kiểu Tây Phương và chiến thuật; nhưng cũng gồm thêm vài đề tài lý thuyết tỉ như toán học và thiên văn. Năm 1771 , các bác sĩ tiền phong Nhật đã mỗ xẽ một phạm tội hình, chỉ chiếu theo sách vỡ . Một học giả khác Aoki Konyo , giúp Yoshimune ước mong tăng gia cung cấp lương thực , đưa vào Nhật Khoai lang - sweet potato và được mệnh danh là Tiến sĩ- Doctor Khoai Lang. Hiraga Gennai ( 1728- 79 ) góp phần du nhập , cải tiến nhiều lảnh vực từ thực vật học đến quặng sắt , điện và các sơn dầu kiểu Tây Phương. Gần đến thế kỷ thứ 18 các sách thiên văn học , y khoa , thực vật học và toán học được xem là tiêu chuẩn ở Âu Châu, thảy đều được dịch ra và xuất bản ở Nhật . Năm 1811 một sở dịch thuật chánh thức được chánh phủ Nhật thiết lập, được biết sau đó dưới tên là Viện Kiểm tra Sách Dân Dã Man- Institute for the Investigation of Barbarian Books. Nhật phản ứng còn mau lẹ và toàn diện về kiến thức Tây phương đưa tới còn hơn cả Tàu, dù rằng Tàu có một lợi điểm khó sánh ngang hàng, nhờ hiện diện các giáo sĩ Dòng Tên - Jesuits, đa số là các nhà khoa học hay chuyên viên kỷ thuật. Nhật đã đuổi các giáo sĩ Dòng Tên vì những lý do chánh trị, nhưng lại sử dụng mọi nguồn thông tin khác dù thiếu sót đi nữa .
Tiếp theo Yoshimune, hiệu quả của bakufu suy đồi. Cả hai shogun thứ 9 và shogun thứ 10 đều không đủ sức đối phó tình thế. Thời Ienari, shogun thứ 10, Matsudari Sadanobu, một hội đồng huynh trưởng có trách nhiệm đặt ra một chánh sách tục danh là Cải Cách Kansei Reforms . Sadanobu cắt bớt ngoại thương, làm ra các luật chặc chẽ hạn chế chi tiêu xa xĩ vì quyền lợi quốc gia, cả đến việc cấm dùng thợ cạo và thợ may mặc. Ông xếp đặt bỏ các nợ nần dân nghèo trong giới chiến sĩ và phục hồi nhấn mạnh nông nghiệp là nền tảng quốc gia. Thoạt tiên các biện pháp của ông hủu hiệu, đem lại lòng tin cho chánh phủ. Tuy nhiên trong dài hạn , trên phương diện kinh tế , cải cách trở nên lố bịch- ngốc nghếch, vì căn bản dựa trên lý thuyết Khổng gíáo cỗ truyền, chứ không trên các thành quả kinh nghiệm kinh tế .
Tiếp theo Cải Cách Kansei là 10 năm đói kém nặng nề. Sau đó khó khăn tài chánh khiến chánh phủ phải tăng đánh thuế giới nông dân. Ba trận đói nặng nhất vào các năm 1732, 1783 và 1832 , gây ra đau khổ dữ dội và lâu dài . Trận đói khởi đầu năm 1783, kéo dài 5 năm, theo nhiều báo cáo đã cho thấy nạn ăn thịt người và hàng ngàn ngươi chết đói ở miền Bắc. Những năm được mùa, nhiều nông trại chủ đất và các nông trại nhỏ sung túc. Trái lại, nhân công ngành nông gặp nhiều khó khăn. Bakufu tuyên bố xem giới nông dân như là nền tảng quốc gia, nhưng họ đối đải nông dân rất tàn nhẫn. Lý thuyết là chỉ cho nông dân vừa đủ để sinh sống và đủ hột giống gieo mùa xuân năm tới và lấy mọi sản xuất còn lại dưới hình thức thuế khóa. Pháp lệnh dạy đời năm 1649, cấm nông dân hái lá cây làm nhiên liệu hay dọn làm món ăn lúc đói kém; cấm nông dân uống trà hay sakê , cấm vợ nông dân đi du ngoạn hay đi bộ trên đồi, và phải ky dị nếu vợ lơ là trách nhiệm trong nhà. Năm 1652, một chủ làng kêu nài đòi giảm thuế cho làng. Giảm thuế được chấp thuận, nhưng chủ làng bị xử tử, vì đã bạo gan xin giảm thuế. Cho nên không lạ lùng gì thấy nông dân nổi loạn xảy ra thường xuyên, và đi cướp phá thành phố, thị trấn. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố hội tụ khác xói mòn tận chân tinh thần đoàn kết dân tộc chế độ Tokugawa xây đắp cẩn thận: sự hiện diện một số ronin - samurai vô chủ thất nghiệp và tụ hợp ở thành phố, giới buôn bán bừng dậy, nhưng không được hệ thống phong kiến Nhật chấp thuận, việc du nhập kiến thức và kỷ thuật Tây Phương có tính chất làm đổ vở lề lối sinh hoạt Nhật truyền thống, nông dân nổi loạn công khai. Đã phải đối đầu với nội tình nghiêm trọng, bakufu lại phải đối đầu thêm một đe dọa từ bên ngoài khi Thiếu Tướng ( Tá ? ) Hải Quân Hòa kỳ - Commodore Matthew C. Perry đến Nhật.
Sứ mệnh Perry đôi khi được xem là lý do duy nhất cho việc thay đổi thái độ Nhật từ ẩn náu qua tham gia thế giới cận đại; một giải thích thiển cận về thay đổi nội tình Nhật. Perry cũng không phải là kẻ gỏ cửa Nhật đầu tiên, tuy rằng ông là kẻ đi vào đầu tiên. Các nhà địa lý Nga đã biết Nhật từ cuối thế kỷ thứ 17, và năm 1702 , Đại đế Peter the Great ( tiếng Pháp là Pierre le Grand ) đã phỏng vấn một thủy tủ tàu Nhật chìm đắm . Dù Nhật cấm, nhiều giao thương bí mật đã xảy ra ở thế kỷ thứ 18 giữa dân Nhật và dân Nga mà Nhật gọi là “ Dân Đỏ Đảo Bắc - Red Northern Islanders “ ( từ các đảo Kurile ). Thành công của Thiếu Tá Perry sử dụng điều đình với sức mạnh , bắt buộc Nhật phải mở cửa, được lịch sử Tây Phương đề cao vì đó là một vài cơ hội hiếm hoi thời bấy giờ Hoa Kỳ thay vì các lực lượng Âu Châu hành động thật năng nổ, hung hăng. Perry mong muốn trao bức thư Tổng thống Fillmore cho “ Hoàng đế “ mà Perry tưỏng là nhà cai trị thực sự , không biết đúng ra phải là shogun. Sau khi trao bức thư, khéo léo nễ mặt dân Đông Phương, Perry nói là dành một năm cho chức quyền Nhật xét đoán và sẽ trở lại với một lực lượng hùng hậu hơn.
. Chánh quyền Shogun tiến thoái lưỡng nan. Lòng Ái quốc , niềm kiêu hảnh quốc gia và chánh sách cô lập, tất cả nhắm về chối bỏ mạnh mẽ các đòi hỏi của Hoa Kỳ. Nhưng các cố vấn cho Shogun biết rỏ là Mỹ súng ống mạnh hơn . Vấn đề là Mỹ có sử dụng súng ống hay không, và mọi chỉ dẫn đều cho thấy Mỹ muốn dùng vỏ lực ủng hộ đòi hỏi, như dân Anh đã làm ở Trung Quốc. Ở tình trạng lưỡng nan này Shogun lần đầu tiên thỉnh ý triều đình hoàng đế Nhật và tất cả mọi lảnh chúa địa phương- daimyo khắp nước . Abe Masashiro, cố vấn chánh cho shogun cảm nhận là thật cần thiết cho quyền lợi quốc gia, thỏa thuận càng nhiều càng tốt trong chính sách điều đình với các ngoại quốc hung hăng. Đa số daimyo trả lời cho shogun đều muốn chống cự , dù có vài daimyo đã tiếp xúc với Tây phương muốn trì hoãn. Triều đình hoàng đế hoàn toàn chống đối mọi nhân nhượng. Abe quyết định cần thiết phải điều đình , sau khi ước lượng lực luợng và ý chí Mỹ - Hoa Kỳ . Khi Perry trở lại Nhật năm 1854 như ông đã hứa, các chức quyền shogun sử dụng chiến thuật trì hõan, nhưng cuối cùng chịu nhượng mọi đòi hỏi chánh yếu của Mỹ. Hòa Ước Kanagawa mở hai hải cảng nhỏ là Shimoda hẻo lánh và Hakodate ở đảo Hokkaido xa xăm. Thực thi hòa ước mới dài dòng và khó khăn. May là Mỹ đã phái đến một sứ thần mềm dẻo là Townsend Harris . Harris dùng biện cứ là sẽ trả tiền cho Nhật một khi có thỏa thuận giao thương, thay vì đưa cao tham vọng đế quốc của Anh và các nước Âu Châu khác, như đã thấy ở Trung Quốc. Tháng 7 năm 1858 , một thỏa ước thương mãi được ký kết giữa Nhật và Hoa Kỳ, mở thêm nhiều hải cảng mới, các khu vực ( tô giới ) đặc quyền ngoại giao - extraterritorially và cư trú ngoại quốc ở Edo và Osaka, một thỏa hiệp quan thuế và nhũng điều khoản Hoa Kỳ cung cấp cho Nhật tàu, vỏ khí và chuyên viên kỷ thuật. Những thỏa ước tương tự sau đó ký kết với 5 nước Âu Châu: Nga, Anh, Pháp và Hà Lan.
Hòa Ước Harris gây ra nhiều tranh luận lớn ở cả hai triều đình shogun và hoàng đế . Khó khăn cho chánh quyền Shogun càng tăng thêm, khi các lực lượng ngoại quốc đòi bồi thường những vi phạm hòa bình, uy quyền shogun suy thoái không có sức ngăn ngừa. Tấn công ngườì ngoại quốc và dân Nhật thân ngoại quốc, không những do các samurai cách ly còn cả daimyo nữa. Đặc biệt là hai thị tộc Choshu và Satsuma, đẩy mau sự sụp đổ chế độ Tokugawa. Thị tộc Satsuma có 27 000 chiến sĩ và thị tộc Choshu 11000. Choshu thành công thuyết phục Hoàng đế buộc Shogun phải đuổi mọi “ Dân Dã man - Barbarian “ khỏi Nhật ngày 25 tháng 6 năm 1863. Quân Choshu bắn đại bác chống tàu Hoa Kỳ, Pháp và Hà Lan ở Eo Biển Shimonoseki . Hoa Kỳ bắn trả vào các lũy đài Chosul và bắn chìm hai tàu mới Choshu. Vài ngày sau, lực lượng Pháp đổ bộ phá các pháo đài cùng các kho tồn trữ vũ khí . Choshu liên tiếp khích lệ bài ngoại khiến quốc tế hành động lần thứ hai. Năm 1864 b 17 tàu chiến Anh , Pháp Hà Lan và Hoa Kỳ lại phá tan các pháo đài vừa tái lập, buộc Nhật phải mở lại eo biển Shimonoseki cho giao thương quốc tế . Hai samurai Choshu Inoue Kaoru ( 1835- -1915 và Ito Hirobumi ( 1841- 1909 ) du học bất hợp pháp từ Luân Đôn trở về thuyết phục được các chức quyền Choshu là chánh sách bài ngoại là mộng tưởng. Trong khi đó thị tộc Satsuma, ít lộ liễu bài ngoại hơn , lại lôi thôi với Anh , vì hiểu lầm văn hóa lúc bấy giờ cả ở Nhật lẫn Trung Quốc . Các vệ binh samurai Satsuma nổi giận giết Charles Richardson dân Anh , vì Richardson không xuống ngựa, kính chào lảnh chúa Satsuma diễu hành qua. Chánh phủ Anh đòi Shogun và Satsuma bồi thường lớn và trừng trị can phạm. 7 tàu chiến hải quân Anh bắn phá nặng nề Kagoshima, đánh chìm một số lớn Tàu Nhật trong hải cảng. Phản ứng Nhật không phải là oán trách than phiền mà là khâm phục không bờ bến lực lượng hải quân Anh. Sau đó Satsuma mua các tàu chiến Anh và nhiều tình nguyện đựợc Hảii Quân ( Hoàng gia ) Anh huấn luyện. Khi Tân Hải Quân Nhật thành lập vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, đa số sĩ quan là các samurai do Anh huấn luyện ; còn đa số sĩ quan bộ binh do Pháp huấn luyện.
Năm 1866, shogun thứ 13 chết và Keiki lên thay. Ngày 3 tháng giêng 1868 , Satsuma và Choshu được hai dinh trang bà con là Echizen và Nagoya cùng hai dinh trang xa xôi là Tosa và Hiroshima, giúp sức chiếm dinh thự thành quách shogun. Tuy ít quân hơn, nhưng khí giới tốt hơn, họ đánh bại lực lượng của Keiki ở các thôn xóm Fushimi và Toba , phía Nam Kyoto , ngày 17 tháng giêng 1868.
9- Thời kỳ Minh Trị Meiji Thiên Hoàng Phục Hưng và Cận đại Nhật bổn
Tháng 4 năm 1868, các lảnh tụ samurai trẽ và cường tráng đưa cho một cậu bé 16 tuổ ( Nhật hoàng Meiji - Minh Trị Thiên Hòang ) ký một tài liệu gồm 5 điều không dài lắm: Lời thề Hiến Chương - Charter Oath phảng phất “ Hiến Pháp “ thời hoàng tử Shotoku đã kể trên .
Điều 1: Dự trù thiết lập các hội đồng ( “ quốc hội “ ) rộng rải khắp nơi, để lấy quyết định cho mọi thảo luận công cọng. Điều 1 tuồng như là một dấu hiệu thực thi dân chủ hoàn toàn , nhưng đó không phải là ý định của điều 1 mà là một cố gắng tập hợp ủng hộ chánh quyền mới. Cuối cùng khi chánh phủ đã vững tâm, các phiên họp hội đồng đều bị bải bỏ.
Điều 2 : Mọi giai cấp cao hay thấp phải đoàn kết thi hành quản trị nước nhà . Đoàn kết có nghĩa lý hơn bây giờ ở Nhật, vì cơ cấu giai cấp phân chia chặc chẻ thời Tokugawa .
Điều 3: Dân gian , không kém chức quyền dân sự hay quân sự , phải được phép đeo đuổi sở nguyện, hầu tránh mọi bất bình. Rỏ ràng hơn điều 2, đây là một hứa hẹn các rào cản làm thất bại chế độ phong kiến sẽ không còn thi hành nữa , mọi sự nghiệp sẽ mở toang đón chào tài năng. Tòan thể quốc gia Nhật sẽ biến thành một vốn góp chung nhân lực cho cố gắng phi thường cận đại nước Nhật.
Điều 4: Mọi thể lệ xấu xa quá khứ sẽ bị đập tan và tất cả mọi việc đều chỉ căn cứ trên các luật của Thiên Nhiên. Số thể lệ xấu xa các tác giả nhắm tới, gồm chế độ cùng mọi công trình shogun Tokugawa . Chỉ là “Luật của Thiên Nhiên “ là một câu kêu gọi phổ cập tính cách thần bí. Tây Phương đã quen thuộc ý niệm này . Đông phương cũng đã hiểu rỏ, vì đây là tư duy, suy nghĩ căn bản của Khổng Giáo và Lão Giáo .
Điều 5 : Hiểu biết sẽ được tìm kiếm khắp thế giới, để cũng cố nền tảng cai trị của hoàng đế .
Đúng là một phá vở quyết liệt với quá khứ. Cai trị của hoàng đế là di sản quá khứ, và tương lai đề xướng hiểu biết … tìm kiếm khắp thế giới . Một khẩu hiệu nổi danh khác là “ Đạo đức Đông phương và Khoa học Tây Phương “ lòng yêu nước xưa cũ và ứng dụng khoa học cận đại sẽ là bí mật giúp Nhật trổi dậy thành cường quốc.
Đặc điểm thứ hai của thời Minh Trị Thiên Hoàng là mô hình Hiến Pháp . Cải cách này tỏ ra ứng tác, không chuẩn bị tí nào cả. Vì đã thay đổi 4 lần từ tháng giêng 1868 đến tháng chín 1871. Cuối cùng Hội Đồng Quốc Gia - Council of State- dajokan và 6 bộ được thiết lập. Hội đồng Quốc Gia, chủ tịch là một nhà quí phái tư tưởng cải cách của triều đình Sanjo Sanetomi ( 1837- 91), chia ra làm 3 bộ phận: Tả Nghị Viện lo về làm luật, Hửu Nghị Viện lo giám sát các bộ và Trung Nghị Viện lo kiểm soát hoạt động hai nghị viện kia, cũng như hoạt động Cơ quan Thờ phụng Shinto, vừa thành lập . Cơ quan này nhấn mạnh đến nguồn gốc thần thánh của hoàng đế Nhật. Cách cai trị này tiếp tục cho đến khi một nội các thành lập, năm 1885.
Tập trung quyền hành tiến tới , bắt đầu bằng lựa chọn Edo làm kinh đô mới, tên gọi mới là Tokyo hay “ Đông Kinh- Eastern Capital “ . Hoàng đế vào ở lâu đài shogun, được sửa đổi lại cho thích hợp. Trở ngại chánh cho tập trung quyền hành có tích cách tâm lý hơn là hành chánh, vì hiện diện riêng rẽ rất nhiếu dinh trang - cương thổ. Dinh trang rộng lớn Tokugawa trước tiên thuộc về chánh phủ chấp chưởng . Dinh trang này được chia ra làm nhiều trấn - tỉnh ( prefectures ). Quản trị các dinh trang khác lần lượt được đưa vào hệ thống dùng cai trị các trấn mới. Lệ phí và rào cản kinh tế giữa các dinh trang đều bị bải bỏ. Kido Koin của Choshu và Obuko Toshimichi ( 1830- 78 ) của Satsuma thuyết phục lảnh chúa daimyo địa phương mình, cũng như các daimyo Tosa và Hizen, trả lại đất cho hoàng đế, tháng 3 năm 1869 . Đây chỉ là một thay đổi tượng trưng, vì các daimyo được cử ngay làm đốc trấn các lảnh thổ cũ của họ. Tháng tám 1871, Hoàng đế tuyên bố dưới danh nghĩa chánh phủ, bải bỏ tất cả mọi dinh trang - cương thổ . Nước Nhật được chia ra làm 75 trấn - tỉnh ( 3 tỉnh đô thị ) ; con số này giảm xuống sau đó chỉ còn 45. Đây là những đơn vị chánh quyền địa phương Nhật ngày nay .Tương đương con số tỉnh thành phố , Trung Ương quản trị ở Việt Nam ngày nay
Bồi thường cho các daimyo cũ rất hào phóng . Đa số các đốc trấn lương bằng 10 tiền thu thuế trong tỉnh. Tài chánh họ tốt đẹp hơn, vì họ không còn có trách nhiệm trả lương samurai, các phí tổn hành chánh khác, đặc biệt là các món nợ của dinh trang . Samurai trái lại không được đối đải tử tế. Lương bị cắt bớt 50% .Tình trạng này gây ra bất mãn, khó khăn thật sự nhất là giới samurai cấp thấp. Năm 1876, tiền lương samurai được trả theo hình thức một công khố phiếu , nhưng tiền lãi trên công phố phiếu chỉ bằng phân nữa tiền lương đã gỉảm bớt rồi. Một lần nữa, các daimyo lại được ưu đải theo các công phố phiếu họ nhận được. Năm 1876 , các samurai bị bắt buộc chấm dứt, không được đeo một cặp kiếm ngắn và dài, trước đó được xem là một ưu đãi xã hội, giới samurai gìn giữ rất cảnh giác.
Lật đổ chế độ shogun hoàn tất nhờ sự giúp đở của các lực lượng dinh trang và một nhân - nhóm nhỏ binh lính hoàng đế . Khi chánh sách Phục hồi vững chắc , các lảnh đạo mới khởi sự xây đắp lực lượng hoàng đế. Tiền phong là Omujra Masujiro thiết lập xưởng làm võ khí đạn dược và các học viện quân sự .Ông bị một samurai bảo thủ ám sát năm 1869, nhưng công trình ông lại được Yamagata Aritomo ( 1838- 1922) tiếp tục. Aritomo sau đó được cử tổng tư lệnh quân đội hoàng đế Nhật, một lực lượng gồm có 9000 binh lính, tuyễn chọn từ các dinh trang cương thổ Satsuma, Choshu,Tosa và tổ chức theo kiểu quân đội Pháp . Năm 1873, ông làm thượng thư ( Bộ trưởng ) Bộ Binh và rất có uy tín nhiều năm trong chánh phủ.
Các tàu chiến và binh thuyền từ các dinh trang bờ biển là những đơn vị đầu tiên tân hải quân Nhật, tổ chức theo lối Hải Quân Hoàng gia Anh - Royal Navy. Hạm đội Satsuma cũ trong nhiều năm cung cấp đa số sĩ quan cao cấp hải quân Nhật như đã kể trện
Năm 1873 , Aritomo đưa vào một luật cách mạng là cưỡng cách tòng quân toàn thể . Việc này chấm dứt ưu đải quân sự cho giới vỏ sĩ samurai, nhưng lại là bộ phận khẩn thiết cho quốc gia cận đại Nhật mong muốn trở thành. Đây cũng là biện pháp lợi hại giúp chánh phủ kiểm soát thôn xóm xa xôi hẻo lánh trong nước. Luật gây ra nhiều bất mãn trong giới nông dân, nhưng không có nhiều sự cố quan trọng xảy ra .
Các nhà lảnh đạo Nhật có ý định cận đại hóa , không muốn Tây phương hóa. Họ quyết định lựa chọn mô hình tốt đẹp nhất ở mỗi lãnh vực, làm cho Nhật cường thịnh, sánh ngang hàng các cường quốc khác. Họ không có ý định hy sinh hay thay đổi căn bản “ Tinh thần Nhât xưa cũ - the spirit of Old Japan “ yamato damaashii , tâm hồn quốc gia Nhật hay cơ cấu căn bản xã hội mà tượng trưng biểu hiện qua hoàng đế Nhật . Thật ra thì chánh phủ shogun và các lảnh chúa địa phương đã gửi nhiều cá nhân ra ngoại quốc, đem về Nhật thông tin và ý kiến làm căn bản cho các cải cách, nhưng tiến trình này được gia tốc sau năm 1868. Sứ bộ Iwakura rời Nhật năm 1871 và ở lại Âu Châu và Hoa Kỳ 2 năm tròn. Phái đoàn gồm 48 thành viên và 54 sinh viên , ngoài lảnh đạo Iwakura còn có các nhân vật lỗi lạc chánh phủ như Okubo và Kido, cùng các lảnh đạo Nhật tương lai như Ito. Phái đoàn thành công thu thập nhiều thông tin hửu ích, nhưng thất bại hoàn toàn ở mục đích thứ hai là cố thuyết phục các cường quốc Tây phương lúc đó thay đổi các hiệp ước bất bình đẳng ký kết thời Tokugawa . Rất nhiều Bộ, Cục ( Tổng Nha ) chánh phủ Nhật sử dụng các chuyên viên mớì ngoại quốc. Cục Hầm Mỏ chẳng hạn dùng đến 34 chuyên viên ngoại quốc. Bộ Công Nghiệp dùng phần lớn ngân sách, năm 1879, thuê 130 cố vấn Tây Phương. Nhật cố gắng thay thế càng mau càng hay các chuyên viên ngoại quốc vì lương họ quá cao .
Hầu so sánh với vài khía cạnh thời Minh trị Thiên Hoàng , tưởng cũng nên biết là Trung tâm văn hóa mới cho Việt Nam không phải chỉ bắt đầu khi vua Gia Long Nguyễn Phước Ánh ( trị vì 1802-19 ), thống nhất sơn hà ở lục địa từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau và trên biển tây là các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, ngoài Hà Tiên ở Biển Tây , trên biển đông từ các đảo Vịnh Bắc Bộ, các đảo Hoàng Sa xuống đến đến các đảo Trường Sa Biển Đông -Thái bình Dương ), năm 1802 , lựa chọn Phú Xuân- Huế làm kinh đô. Trường phái văn học Phú xuân hình thành từ các tác giả thời các chúa Nguyễn lập nghiệp như Đào Duy Từ ( 1572-1634), Nguyễn hửu Dật ( 1604 ) , Nguyễn Khoa Chiêm ( 1659- 1736 ) , Nguyễn Cư Trinh ( 1716- 1767 ), Mạc Thiên tứ ( 1706- 1780 )… Trước khi các chúa Nguyễn Phước ( Phúc theo tiếng Bắc ) trở thành các vua Nguyễn Phước, nền văn hóa Phú Xuân đã phát triễn khá mạnh , tuy trong một giai đoạn không dài, dưới triều đại Tây Sơn ( Trần Gia Phụng - Dòng Việt số 11 , năm 2002 ). Ảnh hưởng Chiêm Thành rỏ rệt trong tôn giáo và âm nhạc. Người Việt bắt đầu thờ cúng những vị thần Chiêm Thành như nữ thần Thiên Y A Na ở điện Hòn Chén ( Ngọc Trản ) tại Huế ,ở Tháp Bà ( Po Nagar ) tại Nha Trang. Và cũng làm quen với Hồi Giáo là một trong hai tôn giáo chánh Chiêm Thành. Ca Huế rất nổi tiếng gồm 2 loại : điệu hát Bắc do ảnh hưởng các từ khúc Trung Hoa ( các điệu cỗ bản , kim tiền , tứ đại cảnh, lưu thủy , hành vân ); điệu hát Nam do ảnh hưởng ca khúc Chiêm ( nam ai , nam xuân , nam bình ). Nhạc cung đình đi đôi với múa cung đình có tính cách tập thể gồm các điệu múa Bát dật hoa đăng, tam tinh chúc thọ, bát tiên hiển thọ, trình tường tập khánh, đấu chiến thắng Phật, tứ linh, nữ tướng xuất quân, múa quạt, tam quốc tây du, lục triệt hoa mã đăng. Hát bội là nghệ thuật tuồng rất thịnh hành trong cung đình nhà Nguyễn , nhất là khi Đào Tấn ( 1845- 1907 ) được bổ nhiệm làm hiệu thư nội các viện ở Huế năm1867 .
Văn hóa Âu Tây, nước ngoài, theo khách thương hồ ngoại quốc, ảnh hưởng rỏ rệt đến nền khoa học kỷ Thuật và sự du nhập Thiên Chúa giáo vào Việt Nam . Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn ( 1726- 1784 ) đề cao nhân vật Nguyễn Văn Tú , quê ở Thuận Châu, qua nước Hà Lan học hai năm nghề đồng hồ và chế tạo kính thiên lý ( viễn vọng kính ). Nguyễn văn Thi em ông, Nguyễn văn Duy con ông , Lương văn Dũng rể ông, đều giỏi kỷ thuật máy móc. Bấy giờ, kỷ thuật khá phát triễn là luyện kim và đúc đồng, tập trung ở Phường Đúc, phía hửu ngạn sông Hương. Nghệ nhân Phường Đúc vào thời các vua nhà Nguyễn đã sản xuất chuông chùa, chuông nhà thờ, dụng cụ bằng đồng, những súng thần công, đỉnh đồng nổi tiếng nhất là Cửu Đỉnh trong Đại Nội, còn lưu truyền ở Huế .
Như chúng ta đã biết Ngày 1-9- 1858, hạm đội Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tiến công đánh chiếm bán đảo Sơn Trà - Đà Nẳng . Ngày 17-2 1859 Pháp đánh chiếm tỉnh, thành Gia Định . Ngày 5-6 1862 , Triều đình vua Tự Đức miễn cưởng ký Hiệp Ước cắt ba tỉnh là Gia Định , Định Tường , Biên Hòa cho Pháp . Ngày 20-6 1867 Pháp đơn phương tuyên bố 6 tỉnh Nam Kỳ là lảnh địa của Pháp. Ngày 20-4- 1873, Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất. Năm 1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai , rồi tung quân đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ. Một cánh quân Pháp do y sĩ Jules Harmand cùng đô đốc Courbet vào đánh Huế tháng 8 năm 1883 . Kinh thành thất thủ. Triều đình Huế thất thế phải ký hòa ước ngày 25-8 1883 gọi là hòa ước Quý Mùi hay hòa ước Harmand , gồm 27 khoản theo đó Việt Nam chịu nhận để Pháp bảo hộ, việc ngoại giao do Pháp phụ trách, từ tỉnh Bình Thuận trở vào thuộc Nam Kỳ, tỉnh Hà Tỉnh trở ra thuộc Bắc kỳ, triều đình Huế trực tiếp cai trị từ Quảng Bình vào tới Khánh Hòa. Hòa ước Giáp Thân hay Patenôtre , sửa đổi đôi chút Hòa ước Harmand ký kết tại Huế ngày 6-6 -1884 gồm 19 khoản, lập qui chế chung là Việt Nam chịu nhận sự Bảo hộ của Pháp, và Pháp thay Việt Nam lo việc ngoại giao ( thật sự Pháp đã ký hiệp ước Fournier ngày 12-5 -1884 với Trung Quóc để Trung Quốc thừa nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam ), lấy Nam Kỳ thành thuộc địa, chia Việt Nam còn lại thành Trung Kỳ từ Bình Thuận ra đến Thanh Hóa, Pháp gọi là Annam, bảo hộ gián tiếp và từ Ninh Bình trở ra là Bắc Kỳ, Pháp gọi là Tonkin bảo hộ trực tiếp, nghĩa là bên cạnh các quan cai trị Việt Nam , Pháp đặt thêm các chánh phó công sứ ở mỗi tỉnh. Các chánh phó sứ lúc đầu thuộc quyền Tổng Trú Sứ Pháp ( résident general hay supérieur), không dự vào việc cai trị, nhưng có quyền đề nghị cách chức quan lại Việt Nam và triều đình Huế phải thi hành. Ngày 17-10- 1887, tổng thống Pháp Jules Grevy ký nghị định thành lập Liên Bang Đông Dương lúc đầu gồm Cao Miên-Cam Bốt, Nam Kỳ,Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Về sau thêm ngày 5-1- 1900, thêm Quảng Châu Loan - Kwang Tcheou Wan tô giới Pháp ở Trung Quốc và năm 1907 thêm Lào - Laos , sau khi Pháp ký với Thái Lan hiệp ước ngày 23-3 - 1907 xác định biên giới phía Tây Lào. Tuy chức quyền Pháp tại Việt Nam, cai trị dựa trên căn bản hòa ước 1884, nhưng trên thực tế người Pháp kiếm đủ mọi cách cũng cố dần dần hệ thống cai trị Pháp, tước bỏ quyền hạn của vua Việt Nam, lấn quyền Triều đình Huế và biến Trung Kỳ-Annam thành một xứ bán thuộc địa.
Đầu thế kỷ thứ 19, triều nhà Nguyễn, một vài điểm như đã kể trên, có một số cố gắng thống nhất quốc gia, mở rộng đất nước về phía Tây, đẩy mạnh khai hoang , phát triễn nông nghiệp và văn hóa chính thống. Chưa kịp cải cách chế độ quân chủ canh tân đất nước, sửa đổi hệ thống tư tưởng Nho Giáo quá lỗi thời so với xu thế thời đại trên hoàn vũ, như vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, thì đã xảy ra cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược, từ năm 1858. Các cuộc khởi nghĩa trong Nam của Nguyễn Trung Trực ( 1861), Thiên Hộ Dương ( 1864-65 ), Thủ Khoa Huân ( 1868 ) … cũng như Biến cố kinh thành Huế dêm 4 rạng ngày 5-7-1885 của Tôn Thất Thuyết và Trần Văn Soạn, tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá, vua Hàm Nghi rời kinh thành Huế ra Tân sở - Quảng Trị, hạ “ Chiếu Cần Vương “ phát động phong trào chống Pháp sôi nổi khắp Bắc và Nam, do Triều Nguyễn lãnh đạo đã thất bại bi thảm. Ngoài mất quyền ngoại giao, cai trị, giáo dục, phát triễn đất nước không còn tự chủ như ở Nhật với các samurai , trí thức trẻ tuổi và cấp tiến hai thị tộc thắng chế độ Shogun là Choshu và Satsuma đã nêu trên, tệ nhất là mất quyền tổ chức quân đội Việt Nam và tân trang võ khí, nay hoàn toàn dưới quyền điều khiển của Pháp. Triều đình chỉ còn lính Khố Xanh không có võ khí mới, ít binh , cấp chỉ huy cao nhất là lảnh binh , Pháp liệt vào hàng thượng sĩ - adjudant. Pháp bải bỏ cấp Chưởng Dinh ( trung tướng hay đại tướng thời Nguyễn ), Chưởng Cơ ( thiếu tướng lữ doàn ), hạ cấp Cai Đội ( Thiếu tá tiểu đoàn ) xuống hàng hạ sĩ cai - caporal , trung sĩ đội - sergent , cấp vị quân đội thuộc địa. Khi thành lập đoàn quân Tiền Phong , bộ trưởng Phan Anh và Thứ Trưởng Tạ Quang Bửu nội các Trần Trọng Kim, chỉ tìm ra được một chỉ huy cao cấp nhất hàng Thiếu Úy ( ? ) , mà lại do Nhật đào tạo cấp thời .
Ở Nhật , thời Minh Trị Thiên Hoàng, Nhật toàn quyền hành động ngoại giao Những phái đoàn Ngoại giao như Iwakura ,đã được phái đi Hoa Kỳ và Âu Châu , trờ về Nhật kịp thời để ngăn chặn Saigo Takamori đề nghị chinh phạt Triều Tiên, năm 1873. Một đoàn chinh phạt nhỏ hơn đã được gửi đến Đài Loan - Taiwan, trừng trị việc Trung Quốc giết vài thủy thủ bị đắm Tàu, từ các đảo Ryukyu đến Đài Loan. Trung Quốc chịu bồi thường Sau đó một lực lượng hải quân cũng được gửi đi đánh Cao Ly . Hòa ước Kangwa - Quảng Hòa ( ? ) năm 1876 , mở thêm hai hải cảng mới, ngoài hải cảng Pusan, để giao thương với Nhật. Cao ly - Triều Tiên được tuyên bố độc lập, dù không có một cố gắng nào bảo đảm thỏa hiệp với Trung Quốc , nước làm chủ, bảo hộ Cao Ly . Đối với giới samurai bất mãn, chinh phục bằng hòa ước không đủ thay thế hiển hách , vinh quang chiến tranh. Saigo lập ra một dây chuyền trường học ở miền Nam nước Nhật, huấn luyện quân sự và nuôi nấng các lý tưởng bảo thủ của giới võ sĩ samurai. Khi chánh phủ Nhật đề phòng, di chuyễn các kho tồn trữ vũ khí khỏi thủ phủ tỉnh Kagoshima, các người ủng hộ Saigo chiếm các kho chánh phủ, tôn Saigo làm thủ lảnh và khởi sự tiến đánh Edo , với 40 000 binh lính. Nhưng bị quân chánh phủ chận đứng ở Kuramoto. Quân động viên, có sự ủng hộ của Hải quân cũng phải mất 6 tháng chiến đấu vất vã mới đuổi lui quân Saigo về lại Kagoshima.Nơi đây , Saigo và các người ủng hộ chánh bị giết chết, sau một cuộc kháng cự tuyệt vọng. Saigo Takamori biến thành huyền thoại , nhưng không còn nổi loạn phong kiến ở Nhật nữa. Từ rày, chánh quyền Meiji làm chủ Nhật , không còn ai đối thủ nữa. Các tay nổi loạn như Saigo không có cái nhìn viễn kiến, thấy xa hay chủ nghĩa chánh trị hiện thực của những nhà lảnh đạo chánh phủ Meiji . Các nguyên tắc chủ yếu được tóm gọn trong khẩu hiệu đương thời là fukoku - kyohei “ quốc giàu, quân mạnh - rich country, strong army “ . Các nhà lảnh đạo này nắm vững sự kiện là cận đại hóa phải là một tiến trình toàn diện và bất khả phân, và vài ý kiến hiến pháp, pháp luật, tiến bộ kinh tế và các phương cách Tây Phương cần được hội nhập ở hệ thống mới , dù rằng họ có ý định giữ lại “ Tinh thần Nhật- The Japanese Spirit “ . Trên hết, họ nhận thức, khác hẳn các nhà cải cách nữa chừng Trung Quốc, là một bộ náy chiến tranh, đòi hỏi không những các kho võ khí , các xưởng làm tàu chiến mà cả toàn thể một bộ máy công ( kỷ ) nghệ cận đại, có lưới chắn bên dưới. Khẩu hiệu của họ dẫn ngay tới quan niệm đượcc biết ngày nay là Phức tạp Quân sự - Kỷ nghệ ( military - industrial complex ) , dù cho họ không đương nhiên chấp thuận những hành xử mà các kẻ nối tiếp họ theo chủ nghĩa sô vanh - quốc gia cực đoan , dùng những dụng cụ quân sự- kỷ nghệ mà họ đã rèn đúc khéo léo .
Chánh phủ Minh Trị thiên hoàng cung cấp nhưng điều kiện chánh trị chắc chắn và một khung cảnh tài chánh đáng tin cậy cho xứ sở. Họ cũng đỡ đầu và ủng hộ vài công nghệ phát triễn sớm , đặc biệt những công nghệ cần thiết cho yêu cầu một bộ binh và hải quân cận đại. Tuy nhiên khu vực tư lại có trách nhiệm phát triễn những công nghệ chánh ở Nhật bổn.
Một lò tân tiến nung chảy sắt được xây dựng ở cương thổ Hizen năm 1850 từ những chỉ dẫn chứa trong một sách vở từ Hà Lan đem tới. Sau đó, sắt của lò này được dùng để đúc đại bác hửu hiệu hơn là những kiểu đồng thau cũ. Tokugawa Nariski , lảnh chúa Mito, cho chạy một xưởng đúc sắt nhỏ và đóng tàu ở khu vực ông cai quản năm 1858. Tân chánh phủ thiết lập trên các nền tảng này những kho xưởng vũ khí lớn tại Tokyo và Osaka, lập thêm một xưởng đóng tàu mới ở Hyogo( Kobe ) ngoài hai xưởng thành lập sớm ở Nagasaki và Yosuka. Ngay trước khi tân chánh phủ bắt đầu hoạt động, Nhật đã có từ năm 1868, 138 tàu cận đại, vài tàu mua ngoại quốc và một số hoàn thành ở Nhật. Những đường sắt-xe lữa ban đầu cho thấy số đường rầy xây đặt rất chậm chạp, vì đất đai núi non và phi tổn làm đường hầm và cầu quá đắt, nhưng những đường rầy mới đặt xong thì đã chuyễn vận lớn. Đường xe lữa ngắn ngủi Tokyo-Yokohama xây xong năm 1872, đã chở 2 triệu hành khách hai năm sau, ngoài một số lượng hàng hóa to lớn. Kobe được nối liền với Osaka năm 1874 và với Kyoto 3 năm sau. Vài đọan đường sắt ngắn hoàn tất năm 1877 trong dự án đường xe lữa Tokyo - Kobe. Sau năm này, các công tư tư nhân khởi sự đi vào lĩnh vực xe lữa, từ trước vẫn do chánh phủ tài trợ. Xây đặt tư nhân mau lẹ vượt xa chánh phủ theo bảng đối chiếu sau đây:
Năm đường rầy tư nhân đường rầy chánh phủ Tổng cọng
1881 0 76 dặm Anh ( 1223 km) 76
1885 130 dặm Anh 220 350
1895 1500 580 2 080
Sau 1906, hệ thống xe lữa bị quốc hửu hóa vì lý do chiến lược, vào thời kỳ khẩn cấp quốc gia.
Một mỏ than đá được khai thác năm 1869 cũng ở cương thổ Hizen, thoạt tiên hoạt động nhờ Anh Quốc giúp đở, nhưng Chánh phủ Nhật chiếm lấy năm1874 và tiếp theo chánh phủ khai thác 8 mỏ khác. Điều này cùng vài phát triễn đáng kể về tơ sợi xúc tiến dưới sự điều khiển của Ito, bộ trưởng bộ Công Nghệ vừa thành lập, từ năm 1870 đến năm 1878. Công nghệ tơ sợi là một mô hình minh bạch nhất về cộng tác giữa chánh phủ và khu vực tư. Chế tạo đồ len - wool , nhu cầu cho đồng phục trong quân đội và nhân viên chánh phủ hoàn toàn thuộc quyền chánh phủ. Mặt khác, tơ lụa đòi hỏi nhiều thủ công, sáng chế chánh là máy quay - cuộn tơ. Có đủ tư bản tư để tài trợ bành trướng vì đòi hỏi quốc tế tăng mau và chánh phủ ít tham gia ngành công nghệ này. Năm 1880, tơ lụa-silk chiếm 43% tổng số xuất cảng Nhật. Trong ngành công nghệ bông vải, một trong những công nghệ tăng trưởng mau nhất bấy giờ, cả hai chánh phủ và tư nhân đều xen vào. Tư bản tư nhân bị hút dẫn vì các xưỏng dệt có thể lớn hay nhỏ và kỷ thuật tương đối đơn giản. Cương thổ Satsuma mở một xưởng dệt bông vải năm1868 và 3 xưởng của chánh phủ năm 1880, cũng như nhiều xưởng tư nhân. Máy móc ngành dệt bông vải mua ở ngoại quốc năm 1878, nhờ chánh phủ cho vay 10 triệu yen , rồi bán lại dễ dãi cho công ty tư nhân. Năm 1877, Nhật chỉ có 8000 ( con ) suốt- spindles, năm 1893 lên đến 383 000 suốt ( tưởng cũng nên nhắc lại là vào đầu thập niên 1960, miền Nam có 60 000 suốt và xin thêm Viện trợ Mỹ 30 000 suốt nữa, nhưng Mỹ từ chối).
Phát triễn công nghệ Nhật do Chánh phủ đở đầu và tài trợ tỏ ra rất tốn kém. Chỉ thực hiện nổi bằng một quyết định cân nhắc suy tính kỷ luỡng, nghiêng về công nghệ thiệt hại cho nông nghiệp. Năm 1880, khoảng 75% dân Nhật là nông dân ( cũng là tỉ số nông dân Việt Nam thống nhất, từ 1975 đến 1995 ) và khoảng 80 % lợi tức thuế khóa thu từ nông nghiệp. Thuế này giúp cho Chánh phủ trả tiền nhập cảng máy móc công nghệ và trả tiền mướn các chuyên viên ngoại quốc. Có thể điều đình vay tiền ngoại quốc, nhưng tiền vay rất đắt đỏ và liên hệ không chấp nhận được đến phụ thuộc các chánh phủ ngoại quốc ; chưa có ai bày ra Ngoại viện và Nhật bắt buộc phải tự xoay sở lấy. Thập niên 1870 là một chục năm chi tiêu lớn chưa bao giờ có ở Nhật. Ngoài việc phải trả lương cho samurai, daimyo và tài trợ công nghệ hóa, còn phải chi tiêu phát triễn đảo Hokkaido ở miền Bắc. Chi tiêu này gồm luôn cả trợ cấp cho vô số kể nông dân di cư đến đảo, góp phần đẩy lui hửu hiệu dân Nga xâm nhập Hokkaido từ miền Bắc. Cuối thập niên này là một thời kỳ Nhật lạm phát nặng nề. Thay vì vay mượn ngọai quốc, theo lời khuyên của bộ trưởng tài chánh giỏi dang Matsukata Masayoshi ( 1835- 1924 ), chánh phủ quyết định chánh sách hạn chế chi tiêu - retrenchment và tiết kiệm. Vì vậy, có thể xem đến năm 1886, mọi việc quốc gia trở lại bình thường.
Một trong những biện pháp Matsukata đưa vào là bán cho tư nhân các xưởng và xí nghiệp nguyên do tài trợ của chánh phủ. Vài xí nghiệp khó có người mua và giá bán bất lợi cho chánh phủ, vì chỉ bằng 11 đến 90% đầu tư nguyên thủy. Tuy nhiên chánh phủ có tiền mặt trong tay - ready cash và lỗ lã được cân bằng nhờ ưu điểm các công nghệ mới thiết lập cho quốc gia. Lẽ dĩ nhiên là có một phần nào tham nhũng chánh trị liên kết với những xếp đặt mua bán, các xưởng bán giá thấp cho bạn hửu ở các bộ liên hệ . Có một trường hợp tài sản chánh phủ ở Hokkaido bán thấp một cách phi lý, gây ra xi căng đan, khiến phải chận đứng việc mua bán này.
Vài công ty có lợi nhất trong việc mua tài sản chánh phủ là các đại xí nghiệp , trổi dậy thành cái mà Tây Phương gọi là công ty zaibatsu ( nhóm tài phiệt - financial clique ) và sau này ở Hàn Quốc- Nam Hàn mệnh danh là chaebol . Đã kể ra rồi là tổ hợp Mitsui, khởi nguyên thời kỳ Tokugawa là xưởng nấu rượu sa kê và tỏa ra bán các hàng khô và làm ngân hàng. Giữa thế kỷ thứ 19 Minomura Rizaemon, một nhà quản lý lỗi lạc, thuyết phục hảng chấp nhận các phương pháp ngân hàng mới và đa dạng hóa hoạt động. Liên hệ qua tình bằng hửu với Inoue, giúp ông giao tiếp đẹp đẻ với chánh quyền, mua xưởng máy xe tơ Tomioka của chánh phủ và bắt đầu làm kỷ nghệ nặng, sau đó thiết lập thành đơn vị riêng rẽ xí nghiệp thương xá - department store lớn Mitsukoshi. Hảng zaibatsu thứ hai là Mitsubishi, chủ nhân nguyên là một samurai Tosa, Iwasaki Yataro, nhờ tài nguyên dinh trang -cương thổ Tosa và trợ cấp chánh phủ, thiết lập riêng cho ông một đường tàu thủy - shipping line. Sau đó trở thành hảng đường biển nổi tiếng N.Y.K. Nippon Yusen Kaisha , hảng Đường Giao Thơ Nhật- Japanese Mail Line . Hảng lớn thứ ba lớn do Shibusawa Eiichi ( 1840- 1931), một nông dân giàu sang đầy tham vọng, trở nên kiệt xuất nhờ sự che chở của Keiki, shogun cuối cùng, thiết lập mở ngân hàng, buôn bán và trở thành chủ tịch Đệ Nhất Ngân Hàng Quốc gia - First National Bank. Ông thiết lập Xưởng Quay Sợi - Spinning Mill Osaka, thành công nổi tiếng vào thập niên 1880, nhờ kích thước to lớn, kỷ thuật cập nhật và quản lý hửu hiệu. Ngoài những hoạt động này, Shibusawa còn đóng vai trò quan trọng ở vài trăm công ty khác. Hai công ty chánh zaibatsu khác là Yasuda ở ngành ngân hàng, đường xe lữa và Asano, hảng đã mua nhà máy xi măng của chánh phủ, biến một công ty lỗ lã thành một công ty có lời .
Ở thời kỳ này, những sự cố chánh trị chuyễn hướng Nhật về thành lập một Hiến Pháp. Phong trào chuyễn hướng chánh phủ thành đại diện dân chúng ở Nhật chậm rì và sơ bộ. Chính ở một thời điểm nào đó, Tổng Thống Hoa Kỳ Ulysses S. Grant khuyên hoàng đế Nhật nên thực hiện chậm rải. Chánh phủ Nhật từ thời kỳ Minh Trị Phục Hưng năm 1868 đến khi ban hành Hiến Pháp Minh Trị - Meiji Constitution năm 1980, nằm trong tay vài người, một nhóm sáng ngời và cấp tiến nhưng vẫn là một nhóm đầu sỏ chánh trị - oligarchy. Khi Saigo Takamori rời bỏ chánh phủ trong khủng hỏang Cao Ly năm 1873, Itagaki Taisuke ( 1837- 1919 ) cũng từ chức theo Saigo, nhưng Saigo nổi loạn quân sự, còn Itagaki lại nghiêng về hành động chánh trị tiến dần từng bước. Với sự ủng hộ thị tộc Tosa của ông, một câu lạc bộ chánh trị, tên là Hội những Người Yêu nước- Society of Patriots, từ một tổ chức địa phương , rồi đạt kích thước quốc gia và trở thành một lò huấn luyện có giá trị cho phong trào một đảng chánh trị quốc gia. Chánh quyền đương thời có khuynh hướng theo truyền thống, xem mọi hội họp nhân sự đề xướng thay đổi là phá hoại; trong khi ai sốt sắng thay đổi lại muốn tiến hành ngay tức khắc đến cực đoan, không hề biết ý niệm thế nào là “ đối lập ngay thẳng, trung thành- loyal opposition “ Tranh chấp giữa chánh phủ bảo thủ và đối lập bùng nổ năm 1881. Okuma Shigenobu ( 1838- 1922 ) lảnh tụ phong trào quốc hội ngay trong chánh phủ , đề nghị bầu cử năm 1822 và lập một nội các trách nhiệm trước quốc hội theo kiểu Anh, làm các đầu sỏ chánh trị- oligarchy hoảng vía, buộc Okuma phải từ chức . Một nhượng bộ cho đảng quốc hội - parliamentary party được thu xếp để hoàng đế tuyên bố một hiến pháp, thiết lập một quốc hội vào năm 1890 . Thế là các đảng phái chánh thức thành hình : Jiyuto hay Đảng Tự Do - Liberal Party, đôi chút đặc điểm chủ nghĩa cấp tiến- radicalism Pháp, lảnh tụ là Itagaki cùng Goto Shojiro và Rikken Kaishinto hay Đảng Hiến Pháp Tiến Hành - Constitutional Party, lảnh tụ là Okuma, gần các tư tưởng Anh hơn.
. Khi Ito, trưởng phái đoàn nghiên cứu , so sánh các hệ thống tổ chức chánh phủ Âu Châu trở về Nhật, ông giám sát mạnh mẽ nhiều bước tiến tới nền dân chủ kiểm soát, ông đã dự tính cẩn thận. Năm 1884, một bậc công hầu mới- new peerage , dự liệu cho Thượng Viện - Upper House được thành lập có 5 cấp : công, hầu, bá, tử, nam. 500 người được cử vào các cấp quí phái danh dự này, ; trong đó 470 người thuộc giới quí phái triều đình cũ. Số 30 còn lại chia cho các nhóm chánh phủ; các lảnh tụ các đảng phái mới bị cố tình gạt bỏ ra ngòai. Rồi sau đó, thể chế công chức- civil service cũng được cải tổ, thiết lập kỳ thi tuyễn và phải đậu qua mọi thủ tục, hầu ngăn ngừa thói gia đình trị- nepotism. Một nội các mới được thành lập thay thế cơ quan chánh phủ tối cao Dajo-Kan, dưới quyền hoàng đế. Như vậy thêm quyền cho thủ tướng nội các là Ito, vì nội các chịu trách nhiệm với hoàng đế, chứ không phải với các dân biểu - đại diện dân bầu lên. Cuối cùng, năm 1888, một Cơ Mật Viện ( Ngự Tiền Văn Phòng, Pháp lập thời vua Bảo Đại mới lên ngôi để kiềm chế, kiểm soát vua ? )- Privy Council ( ? ) được tạo ra để cố vấn cho hoàng đế. Cơ Mật Viện uy quyền trên tất cả, nên Ito từ chức thủ tướng để giữ chức chủ tịch hội đồng Cơ Mật Viện .
Hiến Pháp Meiji ban hành tháng 2 năm 1889, là hệ thống chánh phủ đại diện dân chúng đầu tiên Á Châu. Hiến Pháp được xem là quá rộng rải, dù có rất nhiều bảo vệ. Ito đã khôn khéo tránh khỏi các chỉ trích của phe bảo thủ bằng cách xếp đặt, xem đó là một quà tặng của hoàng đế cho dân Nhật. Chủ quyền quốc gia xác định trên cá nhân hoàng đế, được tuyên cáo là “ thiêng liêng và bất khả xâm phạm - sacred and inviolable “. Hoàng đế có quyền triệu tập hay giải tán Lưỡng Viện - Diet và ban hành các luật khẩn cấp, khi hai viện không họp, nhưng sau đó phải trình quốc hội. Hoàng đế là tổng chỉ huy tối cao bộ binh ( quân đội ) và hải quân và các bộ trưởng có trách nhiệm cá nhân với hoàng đế, không qua toàn thể nội các. Hiến Pháp thiết lập Thượng Viện - House of Peers chỉ định và Hạ Viện - House of Representatives , dân bầu. Hai viện tình trạng ngang hàng nhau, có nghĩa là Thượng Viện cũng có quyền phủ quyết - veto , thêm vào quyền hạn phủ quyết của hoàng đế. Cơ chế chánh phủ đại diện dân có phần nứt rạn dưới thời Minh Trị thiên hoàng, nhưng cũng hoạt động được , và dần dần các đảng phái chánh trị bắt đầu hoạt động bình thường hơn, bằng cách chống đối nhau hơn là phối hợp làm què quặt chánh phủ. Hai thị tộc Choshu ( Ito và Yamagata ) và Satsuma ( Kuroda Kiyotaka và Matsukata Masayoshi ) thay đổi nhau nắm giữ chức thủ tướng.
Hiện tượng hổn độn và tiền tiến kinh tế lẫn chánh trị thời kỳ Minh Trị thiên hoàng, lẽ dĩ nhiên tạo ra những áp lực, những yêu cầu mới. Tăng trưởng phối hợp với niềm kiêu hảnh và tham vọng quốc gia, thúc đẩy mạnh Nhật muốn kiểm soát và thu nhập nhiều lảnh thổ mới ngoài nước . Đó là thừa tố nổi bật nhất của lịch sử Nhật, từ thập niên 1890 đến khi chấm dứt Thế Chiến Thứ Hai. Khởi đầu bằng Cao Ly - Triều Tiên, mục tiêu truyền thống Nhật xâm lăng .Năm 1894, vua Cao Ly , liên quan đến một vụ xung đột bè phái triều đình, kêu gọi Trung Quốc nước bá chủ Cao ly và Trung Quốc gửi đến Cao Ly một phân đội quân lính nhỏ. Nhât gửi môt đoàn quân lớn hơn và yêu cầu Cao Ly cải cách, nhân danh đảng tiến bộ Nhật ủng hộ. Trung Quốc từ chối thỏa hiệp và hai bên tuyên chiến , tháng 8 năm đó. Nhật thắng trên đất liền. Quân đội Nhật tiến vào Mãn Châu - Manchuria. Hành động quyết định xảy ra trên biển, ở cửa sông Yalu. Nhật cũng thắng trận và phá hủy hạm đội Tàu ở Weihaiwei ( Vệ Hải Vệ ? ) tỉnh Sơn Đông và chiếm hải cảng Port Arthur - LữThuận ( ? ) ở bán đảo Liêu đông- Liaotung . Hòa ước Shimonoseki tháng tư năm 1895 đem lại cho Nhật nhiều chiến lợi phẩm: các đảo Đài Loan - Formosa ( Taiwan ) và Pescadores , công nhận Cao Ly độc lập , bồi thường 30 triệu bảng Anh ( pound ) và một hiệp ước thương mãi . Trong cuộc đàm phán, Nhật muốn chiếm luôn cả bán đảo Liêu Đông ở miền Nam Mãn Châu, nhưng ba nước Nga, Pháp và Đức cùng nhau bó buộc Nhật bỏ đòi hỏi này. Gây một sĩ nhục và hiềm khích lớn ở Nhật, nhất là vì Nga đã bắt đầu phát triễn quyền lợi Nga ở Mãn Châu. Nhật sáp nhập Cao Ly năm 1910 và sử dụng tiền bồi thường nới rộng ngoại thương.
Nga phát triễn về phía Đông và mong muốn chiếm Mãn Châu. Bằng một hiệp ước bí mật năm 1896 và một hối lộ lớn cho Lý Hồng Chương - Li hong- Zhang , Nga đã bảo đảm phía Tàu quyền xây dựng Đường Xe Lữa Phía Đông của Tàu ngang qua đất Mãn Châu , khỏi phải làm con đường phía Bắc qua sông Amur dài hơn và khó khăn hơn, nối Đường Xe lữa Tây Bá Lợi Á - Trans-Siberian Railway với hải cảng Vladivostok ở Thái bình Dương. Cùng lúc Nga cũng thuê mướn được bán đảo Liêu Đông có hải cảng Đại Liên- Dairen và quân cảng Lữ Thuận. Mãn Châu trở thành những cạnh tranh chủ yếu giữa Nhật, Nga, Trung Quốc từ cuối thế kỷ thứ 19 đến ngày nay. Năm 1903, Nga và Nhật điều đình trực tiếp. Nga công nhận quyền Nhật hành động tha hồ tự do ở Cao Ly. Nhưng Nhật, có sự trợ lực của Anh, cố gắng giới hạn ảnh hưởng của Nga vào vùng đường xe lữa mà thôi, và để Mãn Châu còn lại hoàn toàn cho Trung Quốc kiểm soát. Trong khi bàn thảo ngưng đọng, Nga hoàng -Tsar Nicholas II tuôn quân đội về phía đông, qua ngã đường xe lữa. Nhật rời khỏi đàm phàn và tấn công ngay tức thì ban đêm vào hạm đội Nga ở Lữ Thuận, thành công ngăn cản mọi tàu chiến Nga rời quân cảng này. Quân Nhật vượt qua biên giới Cao Ly- Mãn Châu ở sông Yalu, trong khi quân đội Nhật chiếm cứ Đại Liên và bổ vây Lữ Thuận phía đất liền. Lực lượng Nhật buộc quân Nga phải rút lui về phía Bắc, dọc theo đường xe lữa. Lữ Thuận ngã nhào tháng giêng 1905. Thiệt hại năng nề cho cả hai bên. Chiến tranh đất liền đạt đỉnh ở Trận Mukden ( Hán Việt ? ) , kéo dài trên 2 tuần lễ tháng 3 năm 1905 và bế tắc không ai thắng ai bại. Trong lúc đó Nga phái hạm đội Nga bể Baltic đến tăng cường quân lực Vladivostok . Anh từ chối cho phép hạm đội Nga dùng kinh đào Suez hay bất cứ hải cảng Anh nào dọc đường. Đô Đốc Nga phải cho tàu chạy quanh Mũi Good Hope( Cap de Bonne Esperance - Mũi Vọng Ước) Nam Phi Châu và đổ dầu ở các hải cảng Pháp tại Mã Đảo - Madagascar và Đông Pháp. Đô đốc Nhật Togo Heichachiro dự liệu đúng là Nga sẽ sử dụng một con đường ngắn hơn, bên trong các đảo Nhật và rình chờ đánh hạm đội Nga, với một hạm đội uy vũ ở Eo biển Đối Mã - Tsushima Straits, giữa Cao Ly và Nhật Bổn. Hạm đội Nga bị đánh gần tan tành hết . 32 tàu chiến trong số 35 tàu Nga không còn hoạt động được nữa. Hải chiến tháng 5 năm 1905 này chấm dứt chiến tranh Nga - Nhật . Dư luận quốc tế hoan hỉ thấy Nhật dũng cảm thắng con gấu Nga . Nhưng các cường quốc Tây Phương bị cú sốc mạnh, khi thấy một quốc gia Âu Châu bị một xứ da vàng Á châu đánh bại toàn diện và mau lẹ . Cho nên các tòa thủ tướng , tổng thống Âu Mỹ duyệt xét lại chánh sách. Tổng thống Theodore Roosevelt xếp đặt một hòa nghị ở Portsmouth, bang New Hampshire, công nhận “ quyền lợi tối cao “ của Nhật ở Cao Ly , trao cho Nhật nữa phía Nam đảo Sakhalin , thuê mướn Bán đảo Liêu Đông và phần đường xe lữa Nam Mãn Châu đến tận phía Bắc ở Trường Xuân - Chang Chun. Hiệp Ước Portsmouth không bồi thường gì cho Nhật , khiến dân Nhật rất bất mãn và thủ tướng Nhật Katsura phải từ chức . Dân Nga chưa bao giờ có cảm tình với chiến tranh cả . Cho nên chiến bại đã đưa đến cuộc Cách Mạng 1905 ở Nga. Còn Ito Hirobumi nay là Hoàng tử - Prince Ito khi vừa rời chân khỏi dinh Tổng Trú Sứ Nhật ở Cao Ly thi bị một dân Cao Ly ám sát chết ở Nam Mãn Châu năm 1909. Cuộc đời của con người sinh ra là một nông dân, đã đạt đến địa vị chỉ sau hoàng đế, đã thấy Nhật từ một quốc gia ít ai biết trở thành một cường quốc thế giới. Hoàng đế Minh Trị một con người cường tráng và tài giỏi , chết năm 1912, chấm dứt một thời kỳ Nhật bổn làm kinh ngạc thế giới .
Phần III ( tiếp theo và hết )
10 - Bành trướng, chủ nghĩa Tự do và Quân phiệt ( 1914- 1931 )
Dự toán Cách Mạng do các lảnh tụ thời Minh Trị và phản ứng ngoan ngoãn , nhiệt thành của dân gian Nhật đến năm 1912 là một thành công nổi tiếng. Nhật bổn đã đạt một sức mạnh quân sự đáng thán phục. Nền kinh tế Nhật vươn lên đến mức ngay nay gọi là điểm cất cánh - takeoff point . Làm việc nặng nhọc và tính cần cù đã giúp công nghệ Nhật tái đầu tư 15% vào cơ xưởng , máy móc những năm tốt đẹp , sau 1900, mà vẫn còn thừa để nâng cao đời sống xứ sở , nói tổng quát. Một phần tư thế kỷ trước Thế Chiến thứ I, là một thời kỳ khắp thế giới hăm hở dành nhau thuộc địa, nhượng địa, và những vùng ảnh hưởng ở Á Châu và Phi Châu. Nhật bổn hùa theo các cường quốc khác, chi tiêu rất nhiều về “ tự vệ - quốc phòng - defense “ từ 1890 đến 1914.Tổng số chi tiêu này tăng 4 lần ở Nhật và mỗi dân Nhật đóng góp tăng từ 60 xu Mỹ đến 1.75 đô la. Tuy rằng con số này nhỏ hơn Hoa Kỳ thời bấy giờ, mỗi đầu người Mỹ là 3.20 đô la và thua xa các đối thủ chánh cường quốc thế giới , Anh và Đức, nhưng cũng biểu hiện một cố gắng phi thường, nếu nghĩ đến sự kiện là Nhật chỉ mới bắt đầu chánh sách cận đại hóa sau năm 1868.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914, chánh phủ Nhật Okuma tức khắc vào phe Đồng Minh - Allies , tuyên chiến với Đức và gửi một lực lượng tấn công các cơ sở Đức ở Sơn Đông - Shangtung , không lý gì đến nền trung lập của Trung Quốc lúc đó. Anh hiệp lực chiếm hải cảng Tsingtao ( Hán Việt ? ) và 3 tháng sau Nhật đoạt mọi tài sản Đức ở Sơn Đông và đặt quân cảnh sát dọc đường xe lửa tỉnh này . Ở chiến dịch , lần đầu tiên máy bay quân sự được sử dụng . Lúc này Nhật cũng chiếm luôn các đảo Đức giữ là các quần đảo Mariana, Caroline và Marshall. Nhật cho là đúng thời cơ để Nhật cũng cố uy quyền ở lục địa. Năm 1915 , Nhật bí mật trao cho Viên Thế Khải - Yuan Shi Kai 21 Yêu Cầu gồm 5 khoản. Các khoản từ 1 đến 4 liên quan đến quyền giới hạn ở Sơn Đông, Mãn Châu, miền Trung thung lũng sông Dương Tử và bờ biển Trung Quốc. Khoản 5 lên quan đến bổ nhiệm người Nhật làm cố vấn sự việc chánh phủ Tàu, kiểm soát chung Cảnh Sát, vài điều kiện ảnh hưởng đến các kho võ khí và mua bán khí giới. Khoản cuối cùng này rỏ ràng vi phạm đến chủ quyền Trung Quốc, nên các cường quốc Tây phương, dù đang bận bịu chiến tranh cũng không thể bỏ qua. Khi Viên Thế khải cố tình thông tri cho báo chi thế giới biết 21Yêu Cầu này , Nhật đã phải buộc lòng rút lui những phần yêu cầu tranh luận nhất , nhưng cũng nhận được nhiều nhượng bộ đáng giá ở Sơn Đông, Nam Mãn Châu và Đông Nội Mông - Eastern Inner Mongolia . Nhật nhắm vào kinh tế trên nhữg yêu cầu này, nhưng hậu quả chánh trị rất quan trọng ở Trung Quốc: bổng nhiên Nhật trở thành kẻ thù đế quốc chánh của nước Tàu . Ở thỏa hiệp Lansing -Ishii giữa Hoa kỳ và Nhật bổn năm 1917, cả hai nước tôn trọng toàn vẹn lảnh thổ của Trung Quốc , nhưng cũng nhìn nhận, vì đất Nhật quen thuộc gần gủi nên Nhật có “quyền lợi đặc biệt “ với Lục Địa Á Châu và Nhật có quyền bảo vệ .
Ở Hòa ước Versailles, Nhật thành công được Hội Quốc Liên - League of Nations, ủy quyền trên các đảo Thái Bình Dương nguyên thuộc Đức và được công nhận có quyền đặc biệt ở Sơn Đông. Nhật thất bại không ghi được một điều khoản bảo đảm bình đẳng chủng tộc - racial equality vào Minh ước Hội Quốc Liên, vì Úc Châu và California chống đối không cho di cư không phải là da trắng du nhập các xứ này. Tuy nhiên, Nhật được công nhận cuối chiến tranh là một trong “Ngũ Cường Lớn - Big Five “ , có ghế ở hội đồng Quốc Liên và trổi dậy, tốn rất ít chi phí người cũng như tiền bạc, uy vũ hơn trước nhiều lắm. Lợi lộc chánh cho dân Nhật không phải là chánh trị mà là kinh tế. Nhật biết rỏ là đã tiến bộ nhiều từ Thế Chiến Thứ Nhất. Đặc biệt ở đội tàu thương mãi - merchant fleet, có những tàu chuyên chở lớn nhất thế giới, khi mà tàu buôn Anh , Đức bị đánh chìm nặng nề và tàu Mỹ mất mát lớn vì giao tranh tàu ngầm . Nhật cũng đã có khả năng rút ưu điểm ở ngành chế tạo mới, áp dụng những tiên tiến kỷ thuật. Chẳng hạn, Nhật khỏi cần đầu tư nhiều đóng tàu có động cơ pít tông chuyễn động qua lại - reciprocating engines tiên tiến thẳng đến các tuabin chạy hơi nước- steam turbines và động cơ diesel. Trong thế Chiến thứ Nhất, đội hải thương Nhật tăng lên gấp mười. Nhật đã chiếm phần lớn ngành thương mãi tơ sợi và khi dứt chiến tranh, Nhật là một quốc gia chủ nợ, số lượng vàng kim dự trữ tăng lên 6 lần trong 6 năm .
Nhật tham gia nhiều trên trường chính trị quốc tế. Đồng thời trường chính trị quốc nội cũng thay đổi nhiều. Nhóm nhỏ, tài ba nhưng vững chắc đầu sỏ chánh trị Minh Trị, nắm quyền cho đến khi Chiến Tranh Thứ Nhất bùng nổ. Khi Chiến Tranh chấm dứt, chánh quyền được phân phối rộng rải cho một loạt các tinh hoa Nhật, tỉ như thư lại, doanh nhân, các lảnh đạo quân sự, Hội đồng Cơ Mật, bậc quí phái, các trí thức. Thập niên 1920 , đặc biệt giữa đầu thập niên, là thời đại chánh trị tự do chủ nghĩa - liberal politics ở Nhật . Khuynh hướng này thể hiện ở thủ tướng Hara Kei ( sinh năm 1856 ), chủ tịch đảng Seiyukai và là thường dân - commoner đầu tiên làm thủ tướng Nhật. Ông giữ chức vị 3 năm cho đến khi bị một nhân viên hửu phái ám sát. Lúc đảng phái nắm chánh trị, các quyền lợi doanh nghiệp có khuynh hướng ngự trị, đôi khi với những phương tiện đáng ngờ vực, có nhiều ca tham nhũng bị khám phá ở hai đảng chánh Seiyukai và Kenseikai . Đảng này đổi tên thành Minseito năm1927 . Các doanh nhân chống lại những mưu đồ bành trướng quân sự vì chúng tốn tiền thu thuế và vì chúng đưa tới tẩy chay hàng hóa Nhật do các nhà quốc gia Tàu chủ trương. Đó là một phần cương lĩnh đảng tả phái Seiyukai năm 1912, đề nghị rút các lực lượng Nhật đang tiến đánh Tây Bá Lợi Á - Siberia với một cuộc viễn chinh Đồng Minh chống Bolshevik năm 1918 và đã ở lại vùng này với hy vọng mơ hồ có thêm lảnh thổ, sau khi quân Đồng Minh đã rút khỏi vùng. Thật ra, các nội các thập niên 1920, có vẽ thích hòa bình hơn chiến tranh và thận trọng hơn là phiêu lưu mạo hiểm. Có rất ít khác biệt ý thức hệ giữa các đảng phái. Dù các đảng nhận tài trợ từ khu vực đại doanh nghiệp, hội viên lại là các doanh nghiệp nhỏ và các điền chủ nông thôn , không có phương cách nào khác bày tỏ nguyện vọng chánh trị. Các công nhân nghèo đô thị không đủ tài sản đến mức có thể đi bầu cữ , cũng như không có kinh nghiệm hay sở vọng gì để tham gia chánh quyền. Nhưng con số công nhân tăng mau. Sản xuất nông nghiệp Nhật tăng gia 50% từ năm 1880 đến năm 1914 nay đã bắt đầu san bình, không gia tăng nữa. Năm 1920 chỉ còn 50% dân sống ở nông nghiệp và một số lớn nông dân di dời về đô thị. Năm 1913, 28 % dân Nhật sống ở thị trấn trên 10 000 người, so với 16% năm 1893. Sản xuất hàng hóa công nghệ tăng gấp ba từ năm 1914 đến năm 1929 .
Chính nghĩa của giới công nhân được các đảng mới chánh trị bênh vực. Oi Kentaro một nhà tiền phong cấp tiến sớm và ủng hộ Tôn Đật Tiên- Sun Yat Sen ( thiết lập Quốc Dân Đảng Trung Quốc ), lập ra đảng Tự do Đông Phương năm 1892 , nhưng đảng này chết yểu. Đảng Dân chủ Xã hội- Social Democratic party thiết lập năm 1901 dưới sự che chở phần lớn của Thiên Chúa Giáo, có một chương trình ngày nay tỏ ra hửu lý là giáo dục miễn phí - free education , ngày chỉ làm việc 8 tiếng đồng hồ, bải bỏ dùng nhân công con trẻ, bị cảnh sát giải tán ngay hôm sau ngày thành lập. Đảng Cọng Sản thành lập năm 1921 ( cùng một năm với đảng Cọng Sản Trung Quốc ) thất bại vì bè phái cũng như bị Cảnh Sát lưu ý, tự nguyện giải tán năm 1924, nhưng năm sau sống lại dưới hình thức bất hợp pháp và hoạt động bí mật. Nhưng chính Nghiệp đoàn Lao động - Labor Union, hơn là các đảng phái, mới thật giúp cho nhân công lao động Nhật bày tỏ nguyện vọng. Các năm chiến tranh giúp nghiệp đoàn thành hình ở nhiều ngành công nghệ. Năm 1929 , số hội viên lên đến 300 000 người. Đình công khởi sự năm 1919 , xảy ra nhiều lần suốt thập niên 1920. Nhiều mục tiêu nghiệp đoàn đạt được năm 1925, tỉ như phổ thông đầu phiếu cho nam thanh niên trên 21 tuổi, giúp số người đi bầu năm đó tăng thêm từ 3 triệu đến 14 triệu người .
Một trong những chánh trị gia xuất sắc của đảng tự do là Ozaki Yukio ( 1859- 1954 ). Khi còn là đô trưởng Tokyo , ông biếu cho thủ đô Hoa Thịnh Đốn những cây hoa hạnh đào - cherry tree nổi tiếng. Ông làm chánh trị liên kết với Okuma. Năm 1898, ông bị bắt buộc từ chức ở nội các vì trong một diễn văn , ông đề cập đến chủ nghĩa cộng hòa - republicanism ở Nhật. Các năm 1912- 13, ông lại đụng tới đề tài tế nhị về vị trí của hoàng đế khi ông lảnh đạo Seiyukai, đối lập thủ tướng Katsura ở Quốc hội. Ba người lảnh tụ theo Thiên Chúa giáo cấp tiến là Suzuki Bunji , Kagawa Toyohiko và Abe Isoo. Màu mè và nhiều nhân cách nhất là Kagawa . Con rơi của một bộ trưởng nội các và một cô đào geisha , ông trở thành mục sư Tin Lành , hoạt động ở các khu ổ chuột tại Kobe , sống trong một phòng bé tí xíu 5.6m2. Các tư tưởng xã hội du nhập vào đất Nhật phần lớn là qua các lảnh tụ Tin Lành. Kagawa giúp Suzuki thiết lập các nghiệp đoàn. Kagawa khởi sự viết văn và các truyện của ông trở thành sách bán chạy nhất - best sellers . Ông được mời nhận một chức vụ cao cấp chánh phủ, nhưng từ chối. Ông hăng hái hoạt động trong các hợp tác xã nông thôn và và thành lập một dây chuyền viện dưỡng bệnh bài lao, cho một số lớn công nhân mắc phải bệnh lao, vì các điều kiện thiếu vệ sinh ở các nhà máy .( Luật qui định không được thuê thiếu nữ làm việc quá tối đa 11 giờ một ngày ở các nhà máy bông vải, chỉ được ban hành ở Nhật năm 1916 ). Ông bị bỏ tù năm 1921, vì tham gia đình công thợ thuyền ở Kobe và một lần nữa bị giới quân sự giam giữ tại nhà, cuối đời ông, lần này vì muốn đề cao làm hòa vói Tàu ở Thế Chiến Thứ Hai . Nhưng khi bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật hoảng sợ vì hành động bạo hành quá xá của binh lính Nhật ( không ở hàng sĩ quan ) trong vụ “Hảm hiếp Nam Kinh - Rape of Nanking “ năm 1937 , họ phải nhờ đến Kagawa đi viếng thăm và nói với binh lính về kỷ luật tự giác.
Tiếp theo Liên Minh Anh -Nhật tái hạn năm 1911, chấm dứt năm 1921, là Thỏa Ước Tứ Cường Anh , Pháp , Nhật và Hoa Kỳ dự liệu tôn trọng quyền của mỗi nước này ở Thái Bình Dương và tham khảo nhau khi có khủng hoảng. Sau đó một điều khoản cực trọng được 4 nước chấp thuận là giới hạn các tàu chiến - capital ship theo sác xuất 5 : 5 : 3 cho Anh, Hoa Kỳ và Nhật và 1.67 cho Pháp và Ý ( Nhật muốn sác xuất 10 :10 : 7, nhưng không được ). Kèm theo là giới hạn số tấn trọng tải các tàu chiến , đường kính súng đại bác, và bảo đảm không được nước nào xây cất căn cứ hải quân mới gần Nhật hơn là Singapore hay Hawaii. Một Hiệp Ước Chín Quốc Gia cũng đượcc ký kết năm 1922 theo chánh sách “ Mở rộng Cửa - Open Door” và bảo đảm lảnh thổ toàn vẹn cùng độc lập hành chánh của Trung Hoa. Tuy nhiên, không có điều khoản nào buộc phải thực thi thích nghi các thỏa ước , hiệp ước vừa kể cả .
Năm 1923 , một trận động đất lớn có lữa cháy tiếp theo , phá tan ½ thủ đô Tokyo và gần toàn thể Yokohama ( vì nhà cửa Nhật làm bằng gỗ ). Hàng trăm ngàn người chết và thiệt hại vô vàn. Tokyo được tái thiết : trung tâm thủ đô xây lại bằng thép và bê tông : dinh thự chánh phủ , nhà Hát Lớn , thương xá … , một mô hình các thành phố, thị trấn Nhật bắt chước theo. Thời đại thập niên 1920 cũng đem lại nhiều thay đổi thời trang xã hội và các cách sống ở Nhật. Phụ nữ đạt thêm độc lập mới, khi đi làm thư ký và nhân viên cơ sở công, tư. Gia đình Nhât cũng thay đổi , vì cha bớt độc tài , và chồng tỏ ra biết điều hơn. Vài nam nhân Nhật sửa soạn xem vợ ngang hàng mình. Có sân gôn - golf và trượt tuyết - skiing cho dân Nhật giàu và bóng chùy - baseball cho mọi người Nhật. Sách vỡ ngoại quốc được dịch ra và phổ biến nhiều hơn bất cứ lúc nào trước đó , và dân Nhật trở thành dân đọc báo hạng nhất thế giới. Nhạc hòa tấu và nhạc cổ điển Tây phương rất thịnh hành, trong khi phim xi nê, nhạc Jazz, các tiệm cà phê ( đúng ra là quán rượu ) mọc như nấm, phục vụ cho sở thích các moga ( thiếu nữ tân thời ) và các mobo ( Nam thanh niên tân thời ) .
Giới thanh niên mạ vàng này làm các nông dân bảo thủ và các sĩ quan Nhật trẻ tuổi và tha thiết yêu nước không còn chịu đựng nổi nữa. Đối với nhiều dân Nhật , hành vì các thanh niên nam nữ là dấu hiệu suy đồi , những phương cách độc đoán cũ bị thất sủng phải bỏ đi, lọt sàng cho chủ nghÌa tự do và quốc tế thay thế . Họ cũng cảm giác là những ý kiến hoa mỹ các chính trị gia các đảng tung ra , không thích hợp để cố vấn hoàng đế. Vậy chớ ai cố vấn tốt đẹp hơn cho Hoàng đế, ngoài Quân Đội ? Vì Quân Đội là nơi cất giữ các đức tính võ sĩ samurai xưa cũ, và chỉ có quân đội mới duy trì thuần khiết được lòng trung thành thời xưa trên cá nhân hoàng đế , theo đúng yamato - damaashii , “Tinh thần Nhật cỗ - The Spirit of Old Japan” . Hoàn cảnh gia đình và thời cơ của các sĩ quan trẻ tuổi và các lính thông thường là một thừa tố đẩy mạnh quyền lực gia tăng của giới quân nhân. Các sĩ quan trẻ đa số là con các sĩ quan, các tiểu điền chủ hay các nông dân . Họ bắt đầu huấn luyện quân sự nghiêm khắc, ít nội dung trí thức ở tuổi mười bốn và không có chút nào hiểu biết những nguyên tắc dân chủ hay chánh phủ đại điện dân , một điều hoàn toàn mới mẽ đối với Nhật. Binh lính từ nhà nông dân , khác với dân trẻ thành thị đều mong được gọi tòng quân. Quân đội cung cấp cho binh lính một đời sống vật chất tốt đẹp hơn, và an ninh xúc động dưới một uy quyền thoải mái hơn là một Đại Thẩm Tra Giáo Hội - Grand Inquisitor của nhà văn Nga Dostoevski. Là nông dân họ là con số không - zêrô. Khi là lính của thiên hoàng , xuất thân từ Nữ Thần Mặt Trời, họ cảm tưởng có một tước hiệu riêng biệt. Bỏ thây cho đất nước không phải là gian khổ mà là vinh quang. Không mấy khác các lính La Mã cỗ xưa cảm tưởng “ Dulce et decorum est pro patria mori - Ngọt ngào thay , thích đáng thay, khi chết cho tổ quốc “. Sĩ quan cao cấp Nhật cũng có cảm giác như vậy, nhưng với lý do khác . Quân đội sẽ không còn nữa nếu chánh sách tự do tiếp tục. Năm 1925 , quân đội chỉ còn 4 sư đoàn trong số 21 sư đoàn cũ .
Quân đội tăng cường ảnh hưởng , khi tướng bá tước Tanaka Giichi lên làm thủ tướng . Tuy nhiên ông lựa chọn một chánh sách Trung Hoa không sáng suốt, cố chận đứng quân Tưởng Giới Thạch Bắc tiến của chánh phủ Quốc dân đảng và bị bắt buộc phải bỏ cố gắng này . Rồi các sĩ quan quá khích Nhật ở Mãn Châu làm ông bối rối to. Họ giết chết lảnh chúa Chang tso Lin ( Hán Việt ? ) bằng cách làm nổ tan chuyến xe lữa chở lảnh chúa với ý tưởng là con lảnh chúa thống chế Trương Học Lương- Chang Hsueh Liang sẽ dễ dàng để Nhật xâm chiếm Mãn Châu. Tanaka đòi hỏi phạt kỷ luật các sĩ quan này , nhưng Bộ Tư Lệnh - Chỉ Huy Tối Cao Nhật bỏ qua, khiến thủ tướng mất mặt, phải từ chức . Nhiều tổ chức bí mật loại quốc gia cực đoan mỗi ngày mỗi hoạt động gắt gao thêm . Hội biết đến nhiều nhất là Hội Hắc Long - Black Dragon Society , tên Tàu của sông Amur. Tên nhấn mạnh đến Mãn Châu và một trong những đối tượng thú nhận là thúc đẩy dân Tàu rối loạn để cho quân đội Nhật có cớ tràn vào Mãn Châu, tái lập luật pháp và trật tự.
Trong những năm từ 1929 đến năm 1932, Nhật bị nhiều vấn đề cam go ám ảnh, cho nên các tay quá khích quân đội cảm tưởng là cần phải giải đáp tuyệt vọng. Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng toàn cầu , nhưng tại Nhật lại có những hậu quả lạ lùng. Xuất cảng giảm 50 % hai năm sau , năm 1929 . Đau khổ lớn nhất cho nông dân. Giá tơ hạ 65% trong một năm , 1929- 1930 . Lợi tức công nhân trụt từ chỉ số 100 năm 1926 xuống còn 69 năm 1931 . Nông dân phải ăn võ cây và bán con gái cho các nhà thổ (chứa đĩ điếm ) ở thị thành. Dân chúng nổi giận nhắm về các zaibatsu, đồng hóa với các lảnh chúa trong đầu óc họ. Đau khổ của các gia đình nông dân cũng lớn lao trong giới sĩ quan quân đội, rất nhiều sĩ quan xuất thân ở nông thôn . Họ có ý kiến là nhờ lòng trung thành và danh dự họ có thể vạch ra cho Nhật ở lục địa Á Châu một đế quốc , độc lập với phần thế giới còn lại, bảo đảm đời sống vững bền cho nông dân và cho công nhân thành thị Nhật. Những sự cố xoáy lốc những năm trước ( đặc biệt ở Ý của phát xít Mussolini ) , tuồng như cống hiến cho các nhà yêu nước Nhật lý tưởng này, những dấu hiệu không lầm được chính họ là những kẻ cứu quốc , cứu xứ sở ra khỏi lầm than .
Thủ tướng Inukai làm những biện pháp mau lẹ vượt qua những ảnh hưởng của khủng hoảng . Ông rút Nhật ra khỏi kim bảng vị một lần nữa. Xuất cảng tăng lên mau. Nhật bắt đầu phục hồi mau lẹ hơn các nước đã công nghệ hóa. Nhưng khuynh hướng không trở lui lại được nữa , vì chuyễn hướng Nhật về phía chủ nghĩa quân phiệt đã bắt rễ chặc rồi .
Trong thời mạt vận nhà Nguyễn Phước bị Pháp tấn công không chống nổi, đời vua Tự Đức, có một trí tuệ lỗi lạc, tư duy trên tầm thời đại là Nguyễn Trường Tộ ( 1828 - 1871 ), người Nghệ An theo Cơ Đốc Thiên Chúa giáo, để lại một số di cảo, viết hàng loạt điều trần , luận văn , tờ bẩm trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược, nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc , về mặt kinh tế, văn hóa xã hội, ngoại giao, quân sự v.v… , nhưng triều đình nhà Nguyễn Phước nói chung cũng như các nho sĩ , văn tânn thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Dù rằng vua Tự Đức có lúc triệu ông “ vào kinh để hỏi việc lớn “ và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ , mua sách vở , máy móc, định du nhập kỷ thuật ( năm 1866- 1867 ) .
Nhưng trên phương diện cứu nước, yêu nước , cách mạng tư tưởng , chánh trị ,văn hóa … thời bấy giờ lớn nhất lại là của “ Ông già Bến Ngự “ Phan Bội Châu , hiệu Sào Nam , quê làng Đan Nhiễm , huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ( 1867- 1940 ) . Cụ Phan thiết lập ra hội Duy Tân năm 1904 , chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ , chủ trương bạo động và nhờ Ngoại viện ( Nhật ? ) khôi phục nền độc lập . Đầu năm 1905, ông sang Nhật và trở về dấy lên một phong trào Đông Du vào các năm 1905- 1908 . Các tác phẩm của ông tuyên truyền cách mạng như Việt Nam vong quốc sử, Hải Ngoại huyết thư … vang danh khắp nước . Lảnh đạo phong trào Đông Du, ông tổ chức Công Hiến Hội , tập hợp 200 học sinh Việt sang Nhật học tập chánh trị , khoa học , quân sự. Tháng 3 năm 1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và cụ Phan bị Nhật trục xuất. Khi cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công ( 1911) Phan Bội Châu trở lại Trung Quốc tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội , tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam và thành lập nước “ Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam” . Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc Quốc Dân Đảng của Tôn Trung Sơn ( Tôn Văn , Tôn Dật Tiên ), Phan Bội Châu đã cải tổ Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng . Ngày 30 tháng 6 năm 1925 , trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu , vừa đến ga Thượng Hải thì ông bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước. Chúng âm mưu thủ tiêu Phan Bội Châu , nhưng việc bại lộ, nên phải đưa ra xử ở tòa đề hình Hà Nội . Trước phong trào đấu tranh bải khóa , bải công ,bải thị rầm rộ khắp nước , thực dân Pháp bối rối phải tuyên bố tha bổng cụ Phan, nhưng bắt cụ Phan phải về ở Huế, không được đi bất cứ đâu. Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu phải bỏ dỡ cuộc sống hoạt động Cách Mạng , nhưng dù sống “ cuộc đời cá chậu -chim lồng “ , cụ vẫn làm thơ nói lên trách nhiệm của người dân đối với nước… ở các tác phẩm như Nam quốc dân tự trị, Nữ quốc dân tự trị, Bài thuốc chửa bệnh dân nghèo, Cao Đẳng Quốc dân, Luân lý vấn đáp, Lời hỏi Thanh niên … , ngoài những công trình biên khảo đồ sộ như Khổng học đăng , Phật học đăng, Xã hội chủ nghĩa , Chu dịch , Nhân sinh triết học …
Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến các năm 19 20- 30 , văn học Việt Nam có nhiều biến chuyễn lớn . Có hai đặc điểm cơ bản : - hàng loạt cuộc cách tân sâu sắc , nhiều thể loại đem đến cho nền văn học dân tộc bộ mặt hiện đại . - nhịp điệu phát triễn mau lẹ nhiều thành tựu phong phú , tuy đã để lại không ít yếu tố phức tạp tiêu cực. Giai đoạn đầu từ những năm đầu thế kỷ đến 1920 là phong trào sáng tác phục vụ Cách mạng theo đường lối tư sản . Lảnh tụ Phong trào là những nhà trí thức Hán học ( Phan Bội Châu , Phan Châu Trinh , Ngô Đức kế , Huỳnh Thúc Kháng… ) nhờ đọc Tân Thư (Trung Quốc) , khuynh hướng cải cách tư sản Trung Quốc , mô phỏng tư tưởng cách mạng tư sản Âu Mỹ , dùng ngòi bút viết nên những bài văn thơ tuyên truyền cổ động, lời chính luận vừa hùng hồn , đanh thép , vừa chứa chan tâm huyết . Nhưng tinh thần “ duy tân” của họ nặng về quan điểm chánh trị, xã hội học thuật hơn là thẫm mỹ . Họ thường viết bằng chữ Hán . Từ năm 1920, 1930 trở đi, những cuộc cách tân văn học , ảnh hưởng của Pháp , thật sự thành phong trào sôi nổi. Hai cuộc khai thác thuộc địa của Pháp trước và sau Thế Chiến thứ Nhất (1914-18 ) gây biến đổi trong cơ cấu kinh tế , xã hội Việt Nam. Từ các đô thị, thị trấn, một công chúng mới xuất hiện : tư sản , tiểu tư sản , thợ thuyền , dân nghèo .. Các phương tiện phổ biến văn chương bằng kỷ thuật ( nhà in , nhà xuất bản , báo chí … ) góp phần đẩy mạnh đổi mới văn hoc. Công cuộc đổi mới này bắt đầu từ sự hình thành các thể văn xuôi quốc ngữ đã được thử nghiệm lẻ tẻ, từ cuối thế kỷ thứa 19. Sau năm 1920, từ Nam ra Bắc đã xuất hiện nhiều cây bút có tài ( Hồ biểu Chánh , Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học , Tương Phố , Đông Hồ.. ). Từ năm 1930 hầu hết các thể văn xuôi đều được hiện đại hóa với nhiều tài năng xuất sắc ( Tam Lang , Vũ Trọng Phụng , Xuân Diệu, Nguyễn Tuân , Nhất Linh, Khái Hưng, Ngô Tất Tố , Nguyên Hồng , Đổ Đức Thu, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Thanh Tịnh , Hồ Dzếnh , Tô Hoài , Bùi Hiễn… ) . Sự đổi mới thi ca gắn với sự ra đời cái “tôi” cá nhân bắt đầu bằng Phạm Thái , Hồ Xuân Hương , Nguyễn Công Trứ , Đào Tấn … ( thế kỷ thứ 19 ), những vùng vẫy mạnh mẽ hơn trong những vần thơ phóng túng, lãng mạn của Tản Đà ( trước , sau 1920 ). Cuối cùng sự giải phóng ra khỏi hệ thống qui ước của thi ca cũ với một thế hệ nhà “ Thơ Mới “ rất trẻ và tài ba : Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Tố Hửu , Lưu Trọng Lư …. Tưởng cũng nên biết hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên “ tự điễn Việt - Bồ la tinh ” và “ phép giảng 8 ngày” của cha Đắc lộ Alexandro de Rhodes , linh mục Dòng Tên năm 1651 đã khai sinh ra chữ quốc ngữ ( Trần văn Cảnh, Định Hướng mùa hè năm 2010) . Chẳng bao lâu những nhà văn quốc ngữ đã xuất hiện như Trương Vĩnh Ký . Huỳnh Tịnh Của. Rồi sự ra đời năm 1865 của tờ báo “ Gia định báo ” tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Nam Kỳ. Từ năm 1905, chữ quốc ngữ lại được các nho gia cách mạng trong phong trào duy tân Đông Kinh Nghĩa Thục như Lương văn Can, Nguyễn Quyền , Phan Châu Trinh … cổ võ truyền bá .. Năm 1907, Đông Cổ Tùng Báo ra đời với chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Nhiều báo khác tiếp theo như Đông Dương Tạp Chí cũng với Nguyễn Văn Vĩnh, Nam Phong Tạp chí với Phạm Quỳnh. Các nhà in đượcc thiết lập; hội dịch sách ra đời; công việc biên khảo và phê bình phát triễn; các ký sự tiểu thuyết mới ra đời; thơ mới ra đời; Tự Lực Văn Đoàn …, cả một nền văn học mới đã được chữ quốc ngữ mở ra.
11- Mãn Châu Quốc, Trung Nhật Chiến Tranh và Thế Chiến Thứ hai ( 1931 - 1945 )
Những quân đoàn tuyệt diệu bộ binh Nhật, quân đội Kwangtung - Quảng Đông Mãn Châu trở nên thiếu kiên nhẫn .Chánh phủ Quốc Dân ( Đảng ) Trung Hoa mạnh thêm hơn, và thời đại lảnh chúa có thể mua chuộc hay dọa dẫm đang qua mau. Hai sĩ quan quân đội Kwangtung cấp bậc đại tá Itagaki và Ishiwara quyết dịnh đúng là thời gian nên tấn công. Họ có sự ủng hộ của bộ Tư lệnh Tổng Chỉ Huy ở Mãn Châu , nhưng tham mưu trưởng muốn biết thái độ của Bộ Tổng Tham Mưu Tokyo. Trung tướng Tatekawa được phái đến với một bức thư cấm mọi khiêu khích, nhưng rồi có vài chuyện lạ lùng xảy ra. Ông đánh điện là ông đang tới và các đại tá vẫn tiến hành thời khắc biểu. Tatekawa không dùng máy bay mà đi tàu hỏa xuyên qua Cao Ly . Khi tới Mukden tối hôm 18 tháng chín 1931, ông đến ngay một trà thất geisha, không có tí gì cố gắng trao thư. Tối hôm đó, một quả bom nổ ở đường xe lữa, ngay phía Bắc Munkden .
Đại tá Iatagaki chỉ thị cho quân lính tấn công lực lượng Tàu ở thành phố. Kho vũ khi, sân bay và trạm rađiô bị chiếm cứ trước bình minh Đến ngày 21 tháng chín , quân đội Nhật chiếm Kirin ở vùng Tây Bắc và tràn khắp Mãn châu, xa hơn vùng đường xe lữa thuộc quyền Nhật quản trị. Chánh phủ Tokyo bối rối, giải thích trước tiên là Nhật hành động để tự vệ và thứ hai là quân đội Nhật đã trở về lại vùng đường xe lữa. Nhưng thật sự chưa bao giờ có vấn đề rút lui. Chánh phủ được bộ trưởng chiến tranh ủng hộ. Mãi sau , mới biết rỏ là toàn thể sự cố, kể cả nổ bom, đều cố tình dàn dựng. Lý do bề ngoài của những chuyễn quân này là để dẹp tan “ giặc cướp - banditry “ Một số lượng trộm cướp thật sự đặc hửu địa phương xảy ra ở miền quê Mãn Châu: những nông dân đói khổ mất mùa, dùng những phương tiện bạo động, hầu tồn tại sinh sống . Các thân kê - millet cao 2- 3 thước làm chỗ ẩn núp kiệt xuất , giúp mọi băng đảng nông dân tuyệt vọng tấn công bất ngờ dễ dàng. Nhưng rối loạn này không hề đe dọa các hoạt động kỷ nghệ và chuyên chở của Đường Xe lữa Nam Mãn Châu . Rỏ ràng Nhật là muốn mở rộng kiểm soát khắp xứ Mãn Châu. Đầu năm 1932, Nhật đã đạt mục tiêu kế tiếp là Nhật cảm giác có thể dựng lên một quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc - Manchukuo , dùng hoàng đế cuối cùng nhà Thanh -Ching Trung Hoa Henry Pu Yi - Phổ Nghi cai trị và cố giả danh đó là nguyện vọng dân” Manchu - Mãn Châu” . Tháng 9 năm 1932 , chánh phủ Nhật công nhận Mãn Châu Quốc . Cách cai trị khắp quốc gia mới này đơn giản và đồng đều. Mọi chức vị từ thủ tướng đến thị trưởng địa phương do dân Tàu nắm giữ , như họ chỉ là bù nhìn. Thực quyền trong tay các phụ tá của họ, ở địa vị thứ hai, đều luôn luôn là Nhật. Đặc điểm thực sự của chế độ là sự kiện Đại sứ của Hoàng đế Nhật ( Thiên hoàng ) ở triều đình Mãn Châu tại kinh đô Hsinking, Tràng Xuân - Chang chun cũ, là tướng Tổng Chỉ Huy quân đội Nhật Kwangtung.
Chánh phủ Quốc Dân( Đảng ) Trung Quốc kháng cáo cuộc chiếm cứ bất hợp pháp này lên Hội Quốc Liên và Hột gửi Ủy Ban Lytton ( trưởng ban là huân tước - Lord Lutton vương quốc Anh ) điều tra. Trên chứng cớ những sự kiện và thông tin từ các nhà trí thức Tàu yêu nước và những người khác ở Mãn Châu, thật minh bạch là Mãn Châu Quốc thiết lập không phải từ nguyện vọng dân Mãn Châu . Khi Ủu Ban báo cáo tháng chín năm 1932, Nhật bị Hội Quốc Liên buộc tội vì những hành động Nhật ở Mãn Châu . Nhật trả lời bằng cách rời các phiên họp và bỏ ra khỏi Hội Quốc Liên. Các quốc gia hội viên không đưa ra trừng phạt nào đối với Nhật cả. Màn cảnh sự cố có vẽ xa xăm đối với các quốc gia Tây phương, nhưng yếu xùi của Hội Quốc Liên và các cường quốc gây ra những hậu quả tai họa. Chắc chắn là các phiêu lưu của Mussolini ở Ethiopia năm 1935 và chiếm cứ vùng Rhur cùng những hành động xâm lăng kế tiếp của Hitler đều nhìn về phía Mãn Châu như thể con cờ thử nghiệm thất bại, không sản xuất cái gì cả, ngoài kết án miệng lưỡi thôi. Nhưng không phải chỉ Hội Quốc Liên yếu kém, vô quyền mà bộ Ngoại Giao và các bộ trưởng dân sự chánh phủ Nhật cũng không đủ khả năng chống lại lữa cháy tiến nhanh ở Mãn Châu do quân phiệt Nhật tạo dựng. Chánh phủ không biết gì cả những dự tính dẫn đến Sự Cố Mãn Châu cho đến khi là sự đã rồi- fait accompli.
Mãn Châu Quốc không biến thành thuộc địa Nhật theo tinh thần hấp dẫn nông dân Nhật đến định cư ở đây. Khí hậu và mùa màng không giống Nhật, nông dân quen thuộc. Nhưng lảnh thổ mới chiếm là lý tưởng cho chủ nghĩa đế quốc của quân đội Nhật, của giới quân phiệt Nhật. Mãn Châu chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên các công nghệ mới khai thác, hưởng lợi. Nhưng trên tất cả, Mãn Châu là một căn cứ lục địa xây dựng được cho quân đội Kwangtung Nhật làm bàn đạp đánh miền Bắc Trung Quốc, khi cơ hội chín mùi. Các lảnh tụ giới quân phiệt Nhật không chỉ hoạt động quân sự . Họ tăng dần tấn công các “tư duy nguy hiểm - dangerous thoughts “ các lảnh tụ trí thức Tàu. Mọi nhân vật nổi bật các nhà thờ Thiên Chúa có tiếp xúc với người ngoại quốc, các nhà chuyên môn như bác sĩ y khoa, hay ai giao thiệp gần gủi với các nhà Quốc dân đảng Tàu đều bị nghi ngờ . Họ bị quân cảnh Nhật kempetai bắt giữ , tra tấn dã man ( kể cả tra khảo sốc điện, ngâm chìm trong nước rồi tra tấn lại - water torture … ) . Rất nhiều dân Tàu đau khổ nặng nề khi bị cảnh sát và quân đội Nhật hạ nhục. Tiết lộ nhưng sự kiện này sau đó gây ra sửng sốt , kinh hoàng trong giới tự do và hòa bình Nhật ngay trên đất Nhật , không tin nổi là dân Nhật lại có thể cư xử bạo tàn, tệ hại như thế . Giới quân phiệt tương đối dễ dàng tại Nhật truyền bá tiến trình “ động viên tinh thần ” phục vụ hoàng đế và xứ sở. Nhưng những cố gắng tương tự ở Mãn Châu Quốc không mấy kết quả . Hải hùng hơn nữa là sự lan tràn ma túy, không phải chỉ hút thuốc phiện truyền thống mà còn nghiện ngập bạch phiến -heroin và moọc phin - morphin . Chức quyền Nhật ở Mãn Châu, khác với Quốc Dân Đảng Tàu, không có cố gắng nào trừng trị thẳng thừng nạn buôn ma túy, thịnh hành từ thời các Lảnh chúa - Tướng Quân Tàu . Vài dân Tàu Mãn Châu tố cáo là quân đội Nhật cố tình phân phối và bán ma túy ở Mãn Châu Quốc vào thập niên 1930, hầu mua chuộc và làm suy yếu tinh thần dân chúng Tàu.
Chánh sách Nhật tuy không phải luôn luôn là thái độ , tình cảm dân gian Nhật, tiếp tục nghiêng về phía hửu. Chủ nghĩa Mác xít - Marsism , kể từ Thế Chiến Thứ Nhất, càng ngày càng lôi cuốn trí thức thế giới, bị đàn áp tàn nhẫn. Khoảng 3000 đảng viên Xã Hội, Cọng Sản và Nghiệp đoàn bị bắt năm 1932 và 1933. Phần lớn bị tù và vài người bị tra tấn đến chết. Nhà tài chánh Inoue và Nam tước Dan , tổng giám đốc điều hành Mitsui bị ám sát đầu năm 1932, cũng như thủ tướng Inukai vài tháng sau. Các phiên tòa xét xử quân đội và dân sự quá khích Nhật trách nhiệm về những ô nhục này, được dùng làm diễn đàn cho quan điểm của giới quân đội quân phiệt và các tuyên án thường nhẹ bổng một cách lố bịch. Dân Nhật có cảm tưởng là lòng yêu nước , “ thành thật ” và “’ động cơ thuần khiết” biện hộ cho những hàng động khủng bố của họ. Chính quân đội cũng có nhiều bè phái, một trong những chia rẽ là giữa các tướng tá đã theo học Đại học chiếnTranh - War College và các quân nhân đã bị đe dọa ở tham vọng đầy uy tín này . Tướng Nagata Tetsuzan có trách nhiệm năm 1934 sa thải một tướng quá khích. Một trung tá đơn giản bước vào văn phòng ông và đâm chết ông bằng kiếm. Tại phiên tòa, trung tá nói rằng ông chỉ hối tiếc là đã không giết chết tướng Nagata chỉ bằng một nhát kiếm duy nhất. Cuộc “ săn bắt phù thủy - witch hunt “ lan rộng tới học đường hàn lâm . Điển hình nhất là vụ giáo sư Minobe Tatsukichi, đại học Tokyo, bị đuổi không cho dạy nữa và mọi công trình ông bị cấm lưu hành, dù đó là những sách giáo khoa tiêu chuẩn từ nhiều năm qua , chỉ vì trong các sách ông xuất bản gọi thiên hoàng là “ một bộ phận chánh phủ ” thay vì là những từ ngữ ca tụng, đặc hửu hơn. Không phải bộ binh quân đội Nhật luôn luôn làm được theo ý mình. Bầu cử, đặc biệt cho năm 1937, đưa trở lại một số lớn các thành viên tự do và những kẻ chống đối hành động bộ binh. Hải quân ít quá khích hơn và các tay tích cực bộ binh , bị bó buộc phải chấp nhận hai thủ tướng ôn hòa là các đô đốc Saito Makoto và Okada Keisuki, các năm từ 1932 đến 1936 . Phương pháp bộ binh Nhật sử dụng kiểm soát chánh phủ đã có từ thời hiến Pháp Minh Trị thiên hoàng kiểu mẩu Phổ - Prussian , đặt vị trí Thiên hoàng đứng đầu quân đội. Thành quả là Tổng Tham Mưu đặt thẳng dưới quyền Thiên hoàng. Bộ trưởng bộ binh trở thành trực tiếp trách nhiệm với Thiên hoàng, đồng thời cũng có chân trong nội các chủ tịch là thủ tướng chánh phủ. Vì phe quá khích luôn luôn nêu lên danh nghĩa Thiên hoàng , thật khó cho bất cứ ai chống lại lựa chọn của họ vào những chức vị cao cấp. Điểm cao nhất hành động trực tiếp xảy ra ở cuộc Nổi loạn Tokyo tháng Hai năm 1936. Vài sĩ quan cấp nhỏ Đệ Nhất Sư Đoàn cùng 14000 binh sĩ đảo chánh ngay tại thủ đô. Họ ám sát vài bộ trưởng nội các và nhân viên bộ Gia đình Thiên Hoàng, chiếm vài dinh thự chánh phủ ở trung tâm thủ đô, kể cả Quốc hội và bộ Bộ Binh. Hải quân và các nhóm quan trọng khác hoàn toàn chống đối đảo chánh. Saionji, Trưởng Lảo Chánh Khách duy nhất sống sót, cương quyết ủng hộ Thiên hoàng và những lảnh tụ đảo chánh bị xem là dân nổi loạn. Binh lính được gọi từ nhiều chỉ huy khác và nổi loạn bị đè bẹp. Lần này không có phô trương diễn đàn và một xét xử mau lẹ, xử tử 13 lảnh tụ đảo chánh .
Nhât ký Minh ước Chống Đệ tam Quốc tế- Ani Commintern Pact với Đức tháng 10 năm 1936 , dấu hiệu cho thấy Bộ binh quân đội Nhật xem Nga là mối đe dọa dứt khoát cho nền an ninh Nhật. Tuy nhiên năm 1937 , bộ binh Nhật mạo hiểm bắt tay vào đánh Trung Quốc , sau khi đã an bài ở Mãn Châu. Đây là bước tiến kế tiếp phát họa chứa trong Thông Diệp Tanaka dự liệu xâm chiếm : Mãn Châu , Trung Quốc, Đông Nam Á, Úc Châu, Ấn Độ. Tài liệu này phản ảnh tư duy của các tay Đế Quốc bộ binh Nhật, dù ngày nay không được xem là là tài liệu quốc gia chân chính của chánh phủ Nam Tước Tanaka, thủ tướng Nhật năm 1927. Sửa soạn theo cúu cánh này đã được Nhật thực thi khá lâu rồi. Cảnh sát đường xe lữa Nhật đã kiểm soát các chuyễn động người và hàng hóa ngoài biên giới Mãn Châu đến miền Bắc Trung Quốc, tiến tới Thiên Tân- Tientsin và Bắc Kinh theo quyền lợi giả thiết an ninh Nhật. Chánh phủ Quốc Dân đảng Trung Quốc bận rộn về những vấn đề đồ sộ cận đại hóa quốc gia và chế tạo vỏ khí chiến tranh, cũng như cam kết trường kỳ chống cọng sản Tàu, cảm thấy bất lực ngăn ngừa những xâm phạm từng giai đoạn của Nhật. Cuối cùng vào tháng bảy năm 1937, lực lượng Nhật thao diễn ở vùng Bắc Kinh xung đột với binh lính Tàu đồn trú tại Lư Cầu Kiều - Marco Polo Bridge .
Xung đột đã được so sánh với sự cố Mãn Châu , nhưng xung đột mới không dự tính trước, ít nhất là ở mức cao cấp, vì chức quyền Nhật hy vọng dễ dàng chiếm miền Bắc Trung Quốc, không cần quân đội giao tranh. Tính toán Nhật lầm to, cuối cùng rất tai hại. Khi đã xảy ra, Nhật gửi thêm nhiều quân tiếp viện. Nhưng chỉ huy trưởng Tàu ở Bắc Kinh chống trả mảnh liệt, dù nguồn lực quân sự của ông yếu kém. Nhật cũng tiến vào Thượng Hải và ở đây cũng gặp chống cự lớn lao. Chiến tranh giới hạn, nếu gọi đó là chiến tranh; Bộ Chỉ Huy Cao Cấp Nhật hy vọng sẽ thắng mau lẹ, và đó cũng tỏ ra là nhận định sai lầm. Cả hai bên bố trí một cuộc chiến đấu lâu dài . Như vậy Thế Chiến Thứ Hai thật sự không phải bắt đầu năm 1941, khi Trân Châu Cảng - Pearl Harbor bị Nhật tấn công, đưa Hoa Kỳ kiên quyết vào vòng chiến tranh. Cũng không phải năm 1939, khi Anh Quốc và Pháp chống cự lại Hitler mà là năm 1937, khi Trung Quốc quyết định là không cam chịu nhu mì Nhật xâm lăng .
Điểm khôi hài là cố vấn quân sự ngoại quốc cho Tưởng Giới Thạch - Chiang Kai Shek là các sĩ quan nước Phổ, đồng minh với Nhật, kẻ thù của Tàu. Họ đã phục vụ tốt đẹp Trung Quốc , đề cao một chiến lược Tưởng Giới Thạch làm theo: có nghĩa là trao đổi lảnh thổ mênh mông của Tàu với thời gian, trong khi chờ đợi đồng minh đến viện trợ. Trung Quốc tránh những đụng độ lớn với lực lượng Nhật mạnh hơn và một tháo lui chiến lược, tuần tự rút về các núi non tỉnh Tứ Xuyên - Szechuan . Trong cuộc tháo lui, Trung Quốc thực hiện những cố gắng phi thường cứu vớt cả vật liệu lẫn nhân công. Các xưởng tơ sợi và các kho võ khí ở Thượng Hải và các thị trấn khác ở bờ biển được tháo gỡ, máy móc chuyên chở sâu vào nội địa bằng xe bò , thuyền trên sông hay sau lưng các cu li theo một dây chuyền không bao giờ chấm dứt. Sinh viên và giáo sư mang theo sách, dụng cụ labô và tái lập các viện đại học ở những khu tạm trú cách đó trên hàng ngàn dặm Anh.
Nhật không bao giờ đủ khả năng để chiếm toàn thể nước Tàu. Nhật có thể thả bom, nhưng bộ binh không tiến sâu nổi vào các tỉnh núi non miền Tây Nam Tàu để thắng hẳn. Nhật tràn khắp những vùng chánh yếu của Tàu, các thành phố, thị trấn lớn và các đường giao thông. Đây là một cuộc chiến tranh tốn kém quá sức cho cả Tàu lẫn Nhật. Các lực lượng du kích phần lớn do Cộng Sản tổ chức hoạt động ngoài Diên An - Yenan vùng Tây Bắc Tàu, thường xuyên tấn công và đánh bại các đồn trú hẻo lánh Nhật, làm gián đoạn giao thông và thành công cung cấp cho mình xe vận tải, súng ống, đạn dược, cả đồng phục từ các đơn vị thù địch nhỏ họ đã đánh bại. Đặc biệt Cọng sản Tàu thành công tổ chức kháng chiến và hệ thống tình báo giữa giới nông dân Tàu, rút thêm kinh nghiệm tổ chức cộng đồng và kiểm soát cấp cơ sở địa phương, sau này tỏ ra có giá trị vô cùng cho chính nghĩa cọng sản, khi chiến tranh Trung - Nhật kết thúc. Nhờ viện trợ Hoa Kỳ và Anh đến Trung Hoa Tự Do, tương đối nhỏ nhưng số lượng đáng kể ; trước tiên theo Đường Miến Điện - Burma Road , và khi đường này bị đóng cửa , theo không vận từ Ấn Độ “ trên cái bướu” núi non hiểm trở, Trung Quốc đủ khả năng chống giữ và dồn Nhật vào thế bí, bất phân thắng bại.
Một khi chiến dịch đánh Tàu đã tung ra năm 1937 , Quân đội ( Bộ Binh ) Nhật được toàn dân ủng hộ và có khả năng thu hoạch mọi dàn xếp Quân đội mong muốn. Luật Động Viên Quốc Gia tháng 11 năm 1938 cống hiến cho chánh phủ một quyền uy rộng rải trên kiểm soát giá cả và lương bổng, một dự án đăng ký và tiết kiệm bắt buộc, chỉ đạo vật liệu và lao động và chánh phủ chiếm hoạt động ở vài ngành công nghệ. Một tổ hợp Phát triễn Công Nghệ Mãn Châu với tư bản chánh phủ được thành lập năm 1938 và những cung cấp thêm than đá, sắt và hóa chất cũng được thành lập qua Tổ hợp Phát triễn Bắc Trung Hoa, hai năm sau. Các đảng chánh trị bị nuốt chửng năm 1940, qua một loại liên kết thời chiến, tên gọi là Hiệp Hội Phụ Giúp Cai trị của Thiên Hoàng - Imperial Rule Assistance Association . Năm đó, nội các trở thành gần như một vô dụng vật, những quyết định trọng yếu nay do một Hội đồng Liên lạc - Liaison conference thủ tướng , bộ trưởng chiến tranh, bộ trưởng hải quân, và các tướng Bộ Tổng Tham Mưu tham dự. Các bộ trưởng khác chỉ tham dự khi được mời. Trên những cố găng thoát khỏi thế bí Chiến Tranh Trung - Nhật, chánh phủ Nhật dụ được một chính khách Tàu đủ uy thế cầm đầu một chánh phủ bù nhìn ở Bắc Kinh. Uông Tinh Vệ - Wang Chinh Wei nhận đóng vai trò này năm 1940 , nhưng không đem lại cho Nhật ảnh hưởng mong muốn. Trung Hoa không giảm bớt kháng cự và bóng ma Nga hiện ra sau lưng Nhật. Có một nhóm lảnh đạo ở Tokyo muốn điều đình với Anh và Hoa Kỳ để cân bằng Nga đe dọa. Tuy nhiên Matsuka Yosuke, nay là ngoại trưởng nội các, của thủ tướng Konoe Fuminaro lại hoàn toàn tin chắc là Đức sẽ thắng cuộc cuối cùng ở Âu Châu. Ông có nhiều chứng cớ vào năm 1940 để tin như vậy. Từ 10 tháng 5 đến 4 tháng 6, Đức thành công vĩ đại trong nhưng tấn công đột ngột và dữ dội - blitzkrieg vào Hà Lan , Bỉ và Pháp, mà đỉnh cao là Đồng Minh rút khỏi Dunkerque - Dunkirk . Chiến trận trên không ở Anh Quốc tiếp theo và và kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1940. Nhưng Goering và không quân Đức - Luftwaffe lại thất bại không phá tan được Không Quân Hoàng Gia Anh - Royal Air Force, không dọn đường được cho xâm chiếm các đảo Anh Quốc, có cơ chấm dứt chiến tranh. Matsuka bốc đồng, không chờ đợi đủ lâu. Ông để Nhật ký kết Hiệp ước Ba Nước - Tripartite Pact với Ý và Đức, cũng vào tháng 9 năm 1940 . Tháng 11, khi trận chiến Anh Quốc nghiêng về phía Anh, có lẽ các bạn đồng nghiệp của ông sẽ không cho ông ký kết Hiệp Ước này đâu. Tháng 4 năm 1941, một thỏa hiệp trung lập giữa Nhật và Nga được ký kết - một thắng lợi của Matsuoka- và Nhật cảm tưởng dễ thở hơn. Nhưng không được bao lâu cả . Vì tháng 6 năm đó, Hitler bất thình lình tấn công Nga , không báo trước cho Nhật. Nhật phải đối diện lựa chọn giữa Hiệp Ước Ba Nước với Đức và thỏa hiệp trung lập ký với Nga. Nhật quyết định theo thỏa hiệp với Nga. Ngoại trưởng Matsuoka thân Đức, bị gạt bỏ khỏi nội các .
Tình trạng kinh tế nay làm các nhà lảnh đạo Nhật lo ngại. Nhật đã tích trữ lớn suốt thời kỳ Trung Nhật chiến tranh, nhưng cung cấp dầu lữa khẩn thiết lại không đủ. Năm 1940, Hoa Kỳ cấm xuất cảng vài vật liệu chiến lược qua Nhật, truớc tiên là sắt vụn , rồi thép và cuối cùng là dầu lữa . Để bảo đảm cung cấp dầu lữa , Nhật gửi hai phái doàn đến gặp Hà Lan đang đô hộ Inđônexia, nhưng Hà Lan chần chừ và chỉ thỏa thuận cung cấp một số lượng nhỏ. Dù tình thế khẩn cấp, Hải quân Nhật khuyên cẩn trọng. Nhật chưa sẳn sàng gây chiến với Hà Lan, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đánh chiếm dầu lữa bằng võ lực . Đô đốc Nomura Kichisaburo được gửi đến Hoa Kỳ điều đình. Nhưng bộ binh quân đội Nhật không kiên nhẫn và quá tự tín. Một quyết định xâm lăng Đông Nam Á tháng 7 năm 1941; Pháp Vichy ( thời thống chế Petain ở Đông Pháp là đô đốc De Coux ) buộc lòng phải thỏa thuận. Khi Nhật gửi quân đến, Hoa Kỳ tức khắc đông giá mọi tài sản Nhật và thương mãi giữa hai nước ngưng hẳn.
Căng thẳng giữa phe điều đình và phe chiến tranh ở Nhật dâng cao .Thủ tướng Konoe cố sức giữ thăng bằng. Nhưng tháng 10 năm 1941, Konoe bị bắt buộc phải từ chức và tướng Tojo - Đông Điều ( Mỹ mệnh danh là “ Dao Cạo - Razor “) Hideki trở thành thủ tướng ngày 17 tháng 10 . Tojo, một quân nhân từ đầu đến cuối, bắt đầu ngay tổng động viên và làm kế họach chiến lược chiến tranh. Những điều khoản Hoa Kỳ đề nghị ở hội đàm Nomura quá khắt khe cho Nhật - Nhật phải rút hết quân ở Đông Dương, Trung Quốc và Mãn Châu. Ngày mồng 1 tháng 12, Hội đồng Thiên Hoàng, một lần nữa bỏ phiếu cho phép tuyên chiến với Hoa Kỳ , nếu Nhật thấy cần thiết. Tổng thống Roosevelt kêu gọi Nhật hoàng lần cuối cùng, nhưng thông điệp của ông không bao giờ tới nơi cả. Các phi cơ Hải quân Nhật bất thình lình tấn công Trân Châu Cảng sáng sớm chủ nhật ngày 7 tháng 12.
Hải quân Nhật đã thao diễn nồng nhiệt tấn công chớp nhoáng Trân Châu Cảng ở vịnh Kagoshima. Tấn công này theo quan điểm Nhật là một thắng lợi sáng chói, nhất là khi Hải Quân Hoa Kỳ không để ý tới những cảnh báo radar là các phi cơ Nhật sắp đến. Bảy tàu chiến, vô số tàu khác, và phân nữa số phi cơ Hoa Kỳ tại Hawaii bị phá hũy hay thiệt hại nặng, thành vô dụng. Tấn công tương tự xảy ra ở Phi Luật Tân , Hồng Kông và Mã Lai. Ở Phi Luật Tân, phi cơ Hoa Kỳ đang đậu ở sân bay, ngay hàng thẳng lối và ngoài khơi Singapore chiến hạm Prince of Wales và tuần dương hạm Repulse đang chạy không có phi cơ bảo vệ , bị đánh chìm thảm hại. Không còn hải quân Hoa Kỳ đe dọa, Nhật chuyễn quân mau lẹ vào toàn thể khu vực Thái Bình Dương. Hồng Kông thất thủ vào ngày Giáng sinh; Manila ngày 2 tháng giêng 1942, tuy Bataan chống giữ đến tháng 4 và Corregidor đến tháng 5. Bảo vệ Singapore hướng về phía biển, vì rừng rậm ở sau lưng được xem là an toàn và bất khả xâm phạm. Nhưng Nhật đã huấn luyện quân lính ở rừng rậm Thái Lan và chiếm Singapore từ lảnh địa ngày 15 tháng hai. Nam Dương - East Indies Hòa Lan thất thủ đầu tháng 3 và Miến Điện cuối tháng 4. Trong vòng 6 tháng kế tiếp, Nhật sửa soạn kỷ càng tiến đánh Úc Châu. Nhưng nay các đường giao thông đã quá xa xôi và Hoa Kỳ đang xây dựng một cuộc phản công.
Hải chiến Biển San Hô - Coral Sea , Nhật - Mỹ huề nhau , nhưng ảnh hưởng là Nhật không còn tấn công Úc được nữa. Trận hải chiến Midway tháng 6 năm 1942, thắng lợi nghiêng về phía Hải quân Hoa Kỳ, vì Hoa Kỳ đã được cảnh báo Nhật tấn công và đủ khả năng đánh chìm 4 hàng không mẩu hạm Nhật, làm tai hại nặng nề cho không quân Nhật. Hải quân Nhật bị hạ nhục lớn vì thất trận Midway , xoay chiều cuộc chiến , nhưng họ chỉ cho Thủ tướng Đông Điều biết thất bại, một tháng sau mà thôi. Trên Đất liền, lực lượng Đồng Minh dần dần tái chiếm New Guinea và sau nhiều chiến đấu cay đắng và kéo dài, Đồng Minh tái chiếm Guadacanal, tháng 2 năm 1943 .
Kinh tế Nhật thực hiện sản xuất phi phàm. Các công ty công nghệ đã thỏa mãn nhu cầu chế tạo dụng cụ máy móc nội địa, trước khi khởi đầu chiến tranh năm 1941. Bằng cách phân tán sản xuất thành những xưởng nhỏ , theo kiểu Nhật điển hình, và hoạt động 15 giờ một ngà , công nghệ chế tạo máy bay đã đủ khả năng trong thời chiến tranh làm ra 62 400 phi cơ . Nhưng nguyên liệu đã khan hiếm . Khối “ Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á- Gresater East Asia Co- Prosperity Sphere ” , Á Châu cho Dân Á , dưới quyền Nhật lảnh đạo, là một cuộc kêu gọi tuyên truyền lớn dài , nhưng thực hiện thấp kém, ngắn ngũi, khi dân gian Đông Nam Á và các xứ khác tìm thấy là lợi lộc tăng thêm cho Nhật; người Nhật điều hành công việc thiếu tế nhị và hách dịch. Cung cấp dầu lữa, cao su, thiếc, các vật liệu thiết yếu cho chiến tranh không chở đến Nhật đủ dùng. Hơn nữa , tàu ngầm Mỹ hoạt động tăng thêm , và dù có nhu cầu khẩn thiết cho chiến trường Châu Âu , hàng hải Nhật bị đánh đắm, mất mát thêm nhiều . ( tính đến khi dứt chiến tranh , Nhật đã mất đi 75 % thương thuyền , có người ước lượng đến 90 % ). Thực sự những ước lượng ban đầu các nhà chiến lược hải quân Nhật đã tính toán gần đúng. Họ đã báo cho chánh phủ Nhật lúc mới khởi sự là chiến tranh có thể thắng , nếu chiến dịch thi hành mau lẹ , nhưng họ không bảo đảm sẽ duy trì được cố gắng quá 18 tháng. Một trong những thành quả của những thắng trận đầu tiên mau lẹ và quyết định là huyền thoại ưu thế da trắng - white supremacy nay đã nổ tan. Nhật làm nhục, cố tình khinh bỉ, ác độc nhẫn tâm tù binh bại trận Hà Lan, Anh, Mỹ trước mắt dân chúng địa phương , ở toàn thể vùng Thái Bình Dương. Sau vụ này và sau 3 năm tuyên truyền mảnh liệt chống thực dân thuộc địa, các chánh quyền thuộc địa cũ không còn khẳng định lại được nữa quyền lực của mình tại vùng này hay cả những nơi khác nữa, khi chiến tranh chấm dứt .
Năm 1943, áp lực trên Nhật dần dần nặng nề thêm lên. Sau vài tháng đánh nhau , lực lượng Hoa Kỳ chiếm Saipan quần đảo Marianas tháng 7 năm 1944 , và từ đó máy bay đã có thể thả bom trên đất Nhật . Các nhà máy Tokyo và Nagoya bị dội bom khủng khiếp . Khi Mỹ chiếm Okinawa tháng 6 năm 1945 , cả hai bên đều tổn thất nặng , Mỹ dội bom tăng thêm nhiều . Hầu như mọi thành phố thị trấn lớn Nhật đều thiệt hại nặng vì bom lữa . Địch quân càng gần Nhật bao nhiêu thì kháng cự lại càng anh dũng bấy nhiêu . Rất ít lính Nhật bị bắt làm tù binh. Phi công Nhật kamikaze Thần Phong bay đánh phá tàu chiến , nhắm thả bom hay phóng ngư lôi thẳng vào mục tiêu và chết luôn khi chúng nổ .
Ở hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Stalin đồng ý lã sẽ đánh Nhật 3 tháng trước khi Đức bại trận. Nhật cố tâm đạt cho được những điều khoản tốt hơn là đầu hàng không điều kiện, mà các Đồng Minh Hội Nghị Casablanca đưa ra buộc Nhật. Tojo từ chức thủ tướng tháng 7 năm 1944 và thủ tướng kế tiếp, tướng Koiso Kuniaki từ chức tháng 4 năm 1945, và Suzuki Kantaro thay thế , khoan nhượng hơn , sẳn sàng đầu hàng với bất cứ điều kiện nào. Nhưng hội nghị Postdam tháng 7 năm 1945 nhất quyết loại bỏ “ chánh sách quân phiệt vô trách nhiệm ” đã hướng dẫn lầm lạc dân Nhật. Có bom nguyên tử trong tay , Đồng Minh cho Nhật biết qua trung gian Nga là Nhật phải đầu hàng không điều kiện hay bị phá tan tành. Đồng Minh đợi Nhật 10 ngày, rồi thả bom nguyên tử đầu tiên ở Hiroshima, đại bản doanh Nam Lộ Quân Nhật , ngày 6 tháng 8 năm 1945 . Quân đội Bộ binh Kwangtung ở Mãn Châu đã kiệt quệ, không còn sức tiếp viện các vùng khác và cũng không kháng cự nổi , cuộc tiến đánh của quân đội Nga. Nhiều đơn vị Hải Quân Nga tấn công Sakhalin và Kuriles.
Ngày 10 tháng 3, nội các, bế tắc ở vấn đề đầu hàng, thỉnh cầu Nhật hoàng Hirohito cho khuyên bảo . Nhật hoàng chịu đầu hàng, và cho Đồng Minh biết với “một điều kiện là duy trì tình trạng của Nhật hoàng”. Đồng Minh không chấp nhận một điều kiện nào cả, và khi Nhật hoàng can thiệp lần thứ hai, Nhật đầu hàng không điều kiện . Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên cáo đầu hàng với quốc dân Nhật, nói rằng dân Nhật phải chịu đựng “những gì không chịu đựng nổi ” và khẩn cầu dân chúng hợp sức tái thiết nước nhà. Dân Nhật và các cấp chỉ huy quân đội chịu nhận tình trạng, vì rỏ ràng là mọi kháng cự đều vô vọng . Một nhóm nhỏ lảnh tụ quân đội nổi loạn, xông vào hoàng cung, cố công bất thành chiếm đoạt bảng ghi âm tuyên ngôn Nhật hoàng, không cho phát thanh. Bộ trưởng chiến tranh tự vận . Hoàng thân Higashikuni được cử làm thủ tướng để bảo đảm trật tự và vâng lời, dựa trên uy tín Nhật hoàng. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật ký công cụ đầu hàng trên soái hạm U. S.S. Missouri ở vịnh Tokyo.
Trên phương diện văn hóa, giữa hai thế chiến, khác với biến chuyễn văn học phe hướng theo văn hóa Pháp và Tây phương thắng thế hẳn, xã hội Việt Nam , như Đào Duy Anh viết ở lời tựa sách “ Việt Nam Văn hóa Sử Cương” ngày 14 tháng 8 năm 1938 : bi kịch của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cỗ truyền văn hóa cũ với những điều mới lạ của văn hóa Tây Phương. Cuối Thế Chiến Thứ Nhất ( 1914-1918 ), tuy công nghiệp hóa ở một nước thuộc địa không thể quyết liệt như ở mẫu quốc, cũng đủ tập trung ở nhiều nơi, làm hiện hình những giai cấp mới vô sản và trưởng giả. Hệ thống cũ Sĩ, Nông, Công, Thương bị đảo lộn, cá nhân được giải thoát rÀng buộc khuôn khổ gia đình cũng như cọng đồng thôn xóm , nhưng thân phận con người không nhờ thế mà trở nên thoải mái hơn xưa. Giai cấp trưởng giả hửu chủ , điền chủ và tài chánh mà tiêu biểu là Đảng Lập Hiến Nam Kỳ- Parti Constitutionnalist Cochinchinois do Bùi Quang Chiêu sáng lập năm 1923 với sự cọng tác chặt chẻ của Nguyễn Phan Long, cả hai là địa chủ giàu có. Đảng này xưng tụng chủ nghĩa quốc gia cách chỉnh , không đòi hỏi lập tức một Hiến Pháp mà chỉ xin Pháp Quốc Hải Ngoại dành cho một số ghế quan trọng trong Hội đồng Thuộc địa - Conseil colonial và nhiều phương tiện bành trướng ngành thương mãi. Trong lúc ấy, hạng trung lưu trí thức tiểu tư sản , thấm nhuần tư tưởng Âu Tây, muốn kết hợp ( nếu có thể ) với toàn thể những kẻ vô sản với mục đích tranh đấu ngay cho độc lập nước nhà ( Tân Việt Cách Mệnh Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng ). Song các phong trào này thất bại, vì không có nguồn gốc trong quần chúng . Trái lại những phong trào nhân dân được vận dụng ráo riết trong khuôn khổ Đông Dương Cọng Sản Đảng, dưới giả dạng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là “ Việt Minh ” ( Lê Mộng Nguyên, Định Hướng số 54, mùa đông 2008 ). Tưởng cũng nên mở dấu ngoặc ở đây về chánh phủ Trần Trọng Kim, thường bị những người Cọng sản , các tác giả các sách giáo khoa , các nhà nghiên cứu chuyên môn ở miền Bắc thời trước và sau năm 1975 , trực tiếp hay gián tiếp gọi là bù nhìn , là việt gian, là tay sai của Nhật. Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh chánh quyền thuộc địa Pháp, chánh phủ Trần Trọng Kim được hoàng đế Bảo Đại thành lập, chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945. Theo Vũ Ngự Chiêu , đây là một “ tai nạn lịch sử “ cả chính thủ tướng chánh phủ lẫn vua Bảo Đại đều bị đặt vào thế “ chẳng đặng đừng, được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật ”. Vượt qua mọi khó khăn , chỉ trong vòng 4 tháng, Trần Trọng Kim và các cọng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế: từ những việc làm có tính cách tượng trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca … đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lảnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chánh phủ Việt Nam, cấm họ liên lạc trực tiếp với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và cả quần chúng nói chung tham gia sanh hoạt chánh trị, xã hội v.v…Ngay cả chỉ trích lớn là nội các Trần Trọng Kim không có bộ quốc phòng , vì thật ra Việt nam khi đó không còn quân đội, cả lính khố xanh phục vụ các quan Nam Triều như đã nói ở các phần trước và lính khố đỏ thuộc các trung đoàn thuộc địa Pháp đã tan hàng ( bộ trưởng thanh niên Phan Anh đã phải tổ chức đoàn thanh niên bán quân sự ), Lê Xuân Khoa đã khẳng định là vua Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim ( mọi tổng, bộ trưởng nội các ! ) không phải là “ bù nhìn của Nhật ” và dù nền độc lập của Việt Nam chưa hoàn toàn, vẫn là một thực tại không phải là “Bánh vẽ ” , nhất là so sánh với những điều kiện của một quốc gia tự do và viễn tượng thống nhất mơ hồ, trong hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 mà chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với đại diện Pháp Sainteny. ( Phạm Cao Dương, số 55, Định Hướng, mùa Xuân 2009 ) .
Tính cách sáng suốt sử dụng bom nguyên tử là đề tài tranh luận lâu dài. Thả bom có thể rút ngắn chiến tranh. Tuy nhiên dân Á Châu vẫn không quên là vỏ khí hủy diệt mới và kinh hải đã thả trên một dân tộc Á châu do một Tây Phương Thiên Chúa Giáo. Các vỏ khí qui ước từ búa đá mài nhọn đến giáo mác, đao kiếm , súng ống, chỉ giết người một thế hệ mà thôi. Bom nguyên tử có uy lực hủy diệt liền, giết chết nhiều người hơn mà lại còn ảnh hưởng đến nhiều thế hệ tương lai qua những tai hại bụi phóng xạ trên hệ thống sinh sản con người. Sau chiến tranh, thị trưởng thành phố Nagasaki, cũng như nhiều nơi khác ở Nhật, nói rỏ ràng là dân Nhật bị sốc và choáng váng vì bom nguyên tử , nhưng không oán giận dân Mỹ nhiều bằng oán giận, vỡ mộng về tình trạng khó khăn giới quân nhân Nhật đưa tới cho họ và hoàn toàn ghê tởm chiến tranh và sử dụng vỏ lực.
Chiến bại Nhật ở Thế Chiến Thứ Hai đưa Nhật, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật, bị xâm chiếm và chiếm đóng đất nước dân chúng kiêu hảnh hằng được dạy dỗ là thiêng liêng . Cho nên bại trận thật là chấn thương, càng sâu xa thêm khi chí can đảm và lòng trung thành của sĩ quan và binh lính của Quân đội Thiên hoàng lại phi thường. Rất ít sĩ quan chịu bị bắt làm tù binh, thà chết theo kiểu samurai truyền thống hơn là bị bắt. Vì lựa chọn chết hơn là đầu hàng được tăng cường mạnh mẽ suốt thời kỳ chinh chiến theo lệnh của Bộ Chỉ Huy Tối Cao, cho nên Nhật đã phải phái đến nhiều chiến trường các hoàng tử và gia đình Thiên Hoàng cho quân sĩ biết tinh cách chính thức của những lệnh đầu hàng.
Dân chúng Nhật lo âu cực kỳ về ý nghĩa cuộc chiếm đóng. Tin đồn đại loan truyền sẽ có nhiều hảm hiếp và cướp bóc, hôi của . Rất nhiều đàn bà, phụ nữ bỏ thành thị về quê. Cho nên dân chúng ngạc nhiên khoan khoái khi thấy lính Mỹ- GI và một số ít lính Anh, Úc và Tân Tây Lan chiếm đóng, không những đứng đắn mà còn cư xử thân thiện nữa. Khi thân thiện tăng thêm dần, chức quyền cả hai bên trở nên phần nào hốt hoảng , khi các quán bán rượu-bar và ổ điếm mọc lên như nấm để phục vụ quân đội chiếm đóng .Tổng quát có thể nói rằng chiếm đóng Nhật ttrong 7 năm , từ 1945 đến 1952 là một công cuộc sửa soạn tốt đẹp và thực thi hay nhất của lịch sử chiến tranh thế giới. Tâm trạng và phản ứng của dân Nhật từ các giai đoạn sợ hải, chuyễn qua an tâm, biết ơn, buồn tẻ và cuối cùng oán giận nhẹ nhàng và đoán trước được. Tướng chỉ huy quân đội Đồng Minh chiếm đóng là Douglas MacArthur. Hình thức theo kiểu một shogun Nhật, cầu kỳ chi tiết vặt lúc thi hành nhiệm vụ, nhưng tôn quí và xa cách. Ý thức lịch sử và số mệnh của MacArthur có khi tỏ ra khoa trương và tự phụ đối vởi những cảm tính bình đẳng của dân Hoa Kỳ ,nhưng chính những đức tính này phối hợp cùng tính vô tư ngay thẳng cơ bản của ông , ấn tượng lớn trên dân Nhật và giúp họ tái tạo một cảm giác tự tín cần thiết .
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt là một thời kỳ khổ cực và khó khăn cho nước Nhật. Tàn phá khắp nơi và thiếu thốn thực phẩm. Dân thành thị chất đầy các chuyến xe lữa tràn về đồng quê, cố đổi chác vài vật sở hửu lấy thực phẩm. Số người thất nghiệp lên đến 13 triệu. Nhật hồi hương thổi phồng dân số cần nuôi ăn . Một số lớn binh sĩ giải ngũ , không được nhìn nhận là anh hùng, tự thấy không ai ưa thích mình, và bị khinh bỉ lúc bại trận. Một số đông bị thương tích và ăn mặc rách rưới, đi ăn xin dọc các đường phố , mắt nhìn các cô gái Nhật khoát tay, ôm vai lính chiếm đóng . Ngay cả những kẻ nhận được thực phẩm cũng bị bắt vì buôn bán chợ đen . Dần dần, viện trợ Hoa Kỳ và dân Nhật làm việc nhọc nhằn, cải thiện tình trạng, tuy rằng cần vài thời gian công nghệ Nhật mới cho thấy sản xuất đáng kể .
Chỉ thị từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn là Nhật phải phi quân sự và dân chủ hóa. Phi quân sự thi hành êm ả và hoàn thành nhanh chóng. Quân lính giải ngũ và cơ sở quân sự tháo gỡ. Xét xử chiến tranh và thanh trừng thực thi ở nhiều mức độ, từ năm 1946 đến năm 1948 . 25 quân nhân bị buộc tội ác chiến tranh chánh và 7, kể cả tướng Tojo-Đông Điều bị treo cỗ. Những người còn lại bị tù chung thân. Hoàng thân Konoe , cựu thủ tướng thà tự tử hơn là vào trại tù Sugamo. 5000 tội phạm chiến tranh bị xét xử ở các nước ngoài Nhật và 900 bị xử tử. 200 000 bị thanh trừng khỏi công chứic , thư lại căn cứ trên căn bản loại công việc họ làm hơn là bất cứ lý do nào họ có trách nhiệm . Trên tiến trình dân chủ hóa, câu hỏi đầu tiên là vị trí Nhật hoàng. MacArthur thi hành quyết định thông minh , đã được cấp cao hơn của Hoa Kỳ đồng ý, không buộc tội Nhật hoàng là một tội nhân chiến tranh, dù có nhiều kêu gào nên xử sự như thế, từ các tay nóng nảy ở Mỹ và giữa các đồng minh . Nhật hoàng được giữ lại vị trí như thể là một tượng trưng cho thống nhất quốc gia và như thể là đỉnh chủ yếu của vòm cầu xã hộ , hầu bảo tồn nước Nhật khỏi hổn độn và phân hủy. Hiến Pháp mới thông qua năm 1946 và thực thi tháng 5 năm1947 qui định minh bạch là chủ quyền ở trong tay quốc dân Nhật và Nhật hoàng là một vua lập hiến - Constitutional monarch . Nhiều bảo đảm ghi trong Hiến Pháp ghi nhận không những cho tự do cá nhân , cư trú và tôn giáo mà còn ở học đường , hàn lâm. Một phần tiến trình dân chủ hóa là chánh sách các chức quyền chiếm đóng khuyến khích phong trào nghiệp đoàn . Luật lệ lao động giữa các năm 1945 đến năm 1947 cấp quyền tổ chức nghiệp đoàn, thương lượng công cọng và quyền đình công. Trong 1 năm, số người gia nhập nghiệp đoàn tăng từ 1 triệu lên 4.5 triệu. Các lảnh tụ lao động Mác xít hay Cọng Sản ra khỏi tù chế độ quân phiệt bắt giam, khởi sự nắm giữ các vị trí lảnh đạo nghiệp đoàn, nhiều đến nổi các chức quyền lo ngại và sửa đổi lảnh vực lao động sau năm 1948 . Ở thôn quê, cải cách điền địa là chương trình dân chủ hóa thành công nhất . Một luật chống độc quyền nhắm trực tiếp vào các đế quốc thương mãi của zaibatsu. 83 tổ hợp công ty bị giải tán và các tài sản gia đình bị tịch thu bằng thuế trên tư bản. Ở ngành giáo dục, học đường bắt buộc tăng từ 6 đến 9 năm , và các sách giáo khoa mới nhấn mạnh đến thể chế dân chủ thay vì những khuynh hướng độc đoán. Dấu khắc ý kiến Mỹ in đậm trên các cải cách giáo dục và trên những tài liệu quan trọng tỉ như Hiến Pháp; vang vọng trong trí người Nhật, vì họ cũng đang tìm kiếm một lý tưởng khác cho Nhật , thay thế “ tổ chức chánh trị quốc gia - national polity “ kokutai , những ngày trước chiến tranh.
Một thay đổi tình hình quốc tế nhưng năm 1948- 50 ảnh hưởng nhiều đến liên hệ Mỹ- Nhật . Năm 1948, Mãn Châu lọt vào tay Cọng Sản Tàu và năm sau Tưởng Giới Thạch bị bó buộc rời lục địa và thiết lập chánh phủ ở Đài Loan . Năm 1950 Liên Hiệp Quốc với quân Mỹ tiền phong, đánh nhau với Bắc Triều Tiên ( Bắc Hàn, Bắc Cao Ly ) và Trung Cọng . Theo ánh sáng thực tế chánh trị thế giới, vài sửa đổi quan trọng xảy ra ở chánh sách Mỹ. Những chánh phủ Nhật kế tiếp nhau xem những sửa đổi này là cần thiết, nhưng nhiều dân Nhật lại xem đó là cơ hội chủ nghĩa trắng trợn. Xây đắp một phẩn nộ chống Hoa Kỳ, bị phe tả Nhật khai thác và vẫn còn tồn tại ở những mức độ khác nhau từ đó đến bây giờ .
Biến chuyễn tình hình làm cho một Hiệp Ước hòa bình với Nhật trở nên thèm muốn qua những kênh của Ủy Ban Viễn Đông -Far Eastern Commission , Stalin và Tưởng Giới Thạch phản đối. Cuối tháng chín năm 1951, đại điện 52 nước họp tại Cựu Kim Sơn - San Francisco ký kết một hiệp Ước Hòa Bình, mọi điều khoản chánh đã an bài. Mọi quốc gia đều ký, ngoại trừ Nga , Ấn Độ và Trung Cọng. Nhật từ chối đòi hỏi Triều Tiên ( Cao Ly ), Formosa( Đài Loan ), các đảo Pescadores, Kuriles, Nam Sakhalin và các đảo Thái Bình Dương ủy nhiệm cho Nhật trước đây. Thủ tướng Nhật Yoshida Shigeru thỏa mãn, xem hiệp ước là “ công bằng và khoan dung - fair and generous ” và nói rỏ là Nhật tự xếp hàng chung với thế giới không cọng sản. Đồng thời với ký kết Hiệp Ước Hòa Bình , Nhật và Hoa Kỳ cũng cùng nhau kết thúc ký Hiệp Uớc An Ninh - Security Treaty, trong đó để cho lực lượng Hoa Kỳ đóng trong và quanh Nhật, hầu bảo vệ an ninh trong và ngoài nước Nhật. Một thỏa hiệp riêng biệt tái lập ngoại giao với Nga, được ký kết năm 1956 và ở thời điểm này, Nhật gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Kinh tế Nhật tăng trưởng kỳ diệu vào thời kỳ hậu chiến, một khi vượt qua những trở ngại ban đầu. Vào thời Minh Trị Thiên hoàng, tăng trưởng kinh tế dựa vào phối hợp chánh phủ và các xí nghiệp tư. Viện trợ Hoa Kỳ, cả công lẫn tư có tầm quan trọng quyết định . Các ngân hàng Nhật cho vay dễ dãi thương mãi, chánh phủ Nhật cống hiến khích lệ thuế khóa, trừ bớt mức khấu hao (chiết khấu ) cao. Tổng sác xuất tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 10% mỗi năm từ năm 1950 đến năm 1965 , cao nhất là 12.1 năm 1963 và thấp nhất là 7.5 năm 1965. Trong khi con số trung bình ở Đức là 6.1 % , Pháp 5.3 % , Anh 2.4 % và Hoa Kỳ 2.3 % . Tổng lợi tức quốc gia Nhật chỉ là 1.3 tỉ đô la Mỹ năm 1946, lên 15.1 tỉ năm 1951 , 51.9 năm 1962 và 176 tỉ năm 1968 .
Thịnh vượng liên tục Nhật làm nghiêng chánh trị về phe bảo thủ. Mọi chánh phủ từ thời chiến tranh đến năm 1993 đều thuộc phe bảo thủ, ngoại trừ thủ tướng Katayama Tetsy các năm 1947- 48 , Xã hội trên phương diện chánh trị và Thiên chúa giáo. Yoshida làm thủ tướng lâu nhất 1946- 47 và 1948- 54 , và là nhịp cầu giữa thời kỳ chiếm đóng và thời độc lập. Yoshida kiểm soát các hoạt động phá hoại, tái cơ cấu các zaibatsu, và phục hồi lực lựợng cảnh sát, một biện pháp để tảp trung kiểm soát trung ương. Biện pháp hướng về tăng cường quyền trung ương kiểm soát, bớt quyền tự trị địa phương, được đối thủ và kế nhiệm Yoshida là Hatoyama Ichiro ( 1954 - 56 ) tiếp tục, đặc biệt ở lảnh vực gíáo dục. Ông cũng đã tái lập bang giao với Nga, tăng thể tích thương mãi với Trung Cọng và hai cánh hửu chánh trị được thống nhất thành Đảng Dân chủ tự Do - Liberal Democratic Party . Thủ tướng Ikeda Hayato ( 1960 - 64 ) chấp nhận hình thức ngọai giao ông gọi là “ tư thế thấp - low posture “ và tập trung nổ lực vào tăng trưởng kinh tế Nhật lớn hơn nữa. Kế tiếp Ikeda là Sato Eisaku, thành công nhờ đi gặp tổng thống Nixon tháng 9 năm 1969 và bảo đảm Mỹ thỏa hiệp hoàn trả Okinawa về cho Nhật năm 1972. Đảng Tự Do Dân chủ của ông thắng Đảng Xã hội -Socialist Party tháng giêng năm 1970.
12- Tình trạng Nhật cho đến năm 1994 về kinh tế , ngoại giao và đời sống chánh trị
Trên ngọn đồi cao hải cảng Nagasaki, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn có vườn kiểu Nhật , xây cất cuối thế kỷ thứ 19 cho một cố vấn công nghệ người Anh Thomas B. Glover, bà Nhật yêu qúi trở thành nhân vật nữ chánh của thảm kịch “Bà Bướm Hoa - Madame Butterfly” của Puccini . Từ điểm lợi thế này , nối liền Đông Phương và Tây Phương , một phía có thể nhìn xuống tiểu đảo cũ Deshima, nay bao quanh bằng đất liền nơi các thương gia Hà Lan bị giam hảm từ năm 1641 . Phía kia là cảnh quan tinh hoa thế kỷ thứ 20 , một khu đóng tàu đồ sộ áp dụng kỷ thuật mới nhất. Những siêu tàu chở dầu khổng lồ kính thước to lớn đến nổi, phần mủi tàu và phần đuôi tàu phải phóng hạ riêng biệt và hàn lại nhau dưới nước.
Kỳ diệu kinh tế
Đóng tàu chỉ là một thành phần tiên tiến công nghệ uy vũ của Nhật từ cuối Thế Chiến Thứ Hai đến năm 1994 ( thật sự từ các năm 1992-93 tổng lợi tức quốc gia Nhật điều chỉnh lạm phát đã giảm, chỉ còn tăng 1-2 % và giữa các năm 1995- 2000 , có lúc mức tăng trưởng xuống âm , tệ nhất vào các năm 2008- 2009 ( xem đồ biểu), thường được gọi là “ kỳ diệu kinh tế - economic miracle ”. Dân Nhật có thể biện minh kiêu hảnh về những gì họ đã thực hiện, nhưng vài người Nhật không lý gì đến những từ ( ngữ ) này vì thành quả đòi hỏi làm việc năng nề khó nhọc, liên tục tập trung suy tư và nhiều hy sinh. Tuy nhiên phát triễn kinh tế là thừa tố có ý nghĩa nhất, ảnh hưởng sâu đậm đến chánh trị và xã hội Nhật.
Lẽ dĩ nhiên, lao động Nhật vượt quá tầm đóng tàu thủy và tiến mau đến những giai đoạn sản xuất cận đại. Dù thời này vẫn còn nông nghiệp, nhưng Nhật đã tiến xa khỏi giao đoạn sơ đẳng là nông nghiệp. Dù vẫn sản xuất thép , đóng tàu thủy và chế tạo máy móc nặng, Nhật cũng đã tiến quá khu vực thứ cấp là chế tạo đến giai đoạn thứ ba- tam cấp, thường được mô tả, tuy không thích hợp cho lắm, là khu vực dịch vụ - services hay thông tin - information. Chúng ta đều biết sản xuất cận đại này tùy thuộc nhiều vào điện tử - electronics, gồm có ti vi, computer , công nghệ robot và vô số phương tiện mới truyền thông - communication và kiểm soát . Nhật là một trong những lảnh đạo thế giới ở những lảnh vực mới này.
Khu vực nông nghiệp Nhật dùng nhiều nhân công, khu vực thứ cấp dùng nhiều tư bản và khu vực tam cấp dùng nhiều tri thức- knowledge intensive. Cũng còn cần dùng nhiều lao động ở khu vực thứ ba, nhưng một thứ lao động khác đòi hỏi sửa soạn lớn lao ở ngành giáo dục. Năm 1987 là một cột mốc lịch sử kinh tế Nhật vì năm đó , tổng lợi tức mỗi đầu người - per capita GNP , lần đầu tiên trội hơn Hoa Kỳ . Năm 1986 , lợi tức mỗi người Nhât , là 16 330 đô la Mỹ, mỗi dân Hoa Kỳ là 17464 . Nhưng năm 1987 , là 19 642 cho Nhật và 18 403 cho Hoa Kỳ. Động cơ phát triễn này là công nghệ Nhật, theo nghĩa cả hai: công ty tỗ hợp và cá nhân.
Có công ăn việc làm suốt đời - lifetime employment cho công nhân chuyên nghiệp và nhân viên ban quản trị. Nhân công nhận thức là tốt cho quyền lợi của họ khi cố làm cho công ty , hảng mình thịnh vượng. Các quản tri, chóp bu phải cố giữ, không phải sa thải nhân công, dù trong lúc công việc hảng đình trệ, Hệ thống phong kiến, hiểu theo kiểu Tây Phương, thiết lập căn cứ trên cá nhân , gia đình và trung thành bè đảng - clan loyalty . Công ty có bài hát riêng, đồng phục riêng , ban thưởng riêng và sinh hoạt xã hội riêng cho công ty. Đồng nghiệp cùng một công ty thường cùng đến cùng một quán rượu hay tiệm ăn , nhậu nhẹt cùng nhau. Nói một cách khác, chính công ty là đời sống của họ.
Một đặc điểm khác biệt của công nghệ Nhật là sử dụng nhiều nhà thầu phụ - subcontractors , những công ty nhỏ chế tạo một bộ phận của thành sản. Cơ cấu nghiệp vụ tên gọi là keiretsu, thoát thai từ các gia đình trước cận đại và công nghệ thôn xóm, làng xã, tăng mảnh liệt dưới áp lực cung cấp cho quân sự thời thế Chiến Thứ Hai. Thủ tục này cũng dược Tây Phương biết rỏ đặc biệt ở ngành ô tô , nhưng phát triễn ở Nhật cao độ hơn .
Một đặc điểm khác đáng nêu ra là tính chất lạ lùng của Nghiệp đoàn Nhật . Mỗi công ty hay mỗi nơi hoạt động đều có tổ chức nghiệp đoàn , chứ không phân phối theo ngành thương mãi như Tây Phương. Họ mặc cả tập thể với ban quản lý. Ít khi có đình công- strike và ngưng việc - work stoppage. Tuy nhiên, vào thập niên 1970, có những cuộc đình công ngắn lan rộng xảy ra đòi tăng lương, đặc biệt ở ngành vận tải , chuyên chở . Trong một năm, ảnh hưởng đến 38 triệu người đi làm việc bằng vé tháng - commuter .
Đặc điểm thứ tư của nền kinh tế Nhật, khác với các nước đã mở mang khác là sác xuất tiết kiệm- rate of saving cao. Tỉ lệ tiết kiệm gia đình ở Nhật, từ năm 1961 đến năm 1979 là giữa 18.2% và 22.1% , trong khi ở Hoa Kỳ chỉ là 8.8% đến 8.8 % . Năm 1988 con số tiết kiệm hạ thấp chỉ còn 14.8% , nhưng cũng còn cao hơn ở Pháp, một xứ tiết kiệm dân gian nổi tiếng, là 12.1 % và 6.6 ở Hoa Kỳ. Năm 1991, chánh phủ Nhật báo cáo là sác xuất tỉ lệ tiết kiệm xuống mức kỷ lục thấp nhất là 6.5 % , cho thấy xoi mòn nền tảng phát triễn kinh tế đã kéo dài từ lâu .
Đặc điểm then chốt thứ năm của ngành công nghệ Nhật là sự hợp tác giữa chánh phủ , quản lý và lao động . Đây là một nhu cầu khẩn thiết tái xây dựng Nhật Bổn sau thế chiến Thứ Hai, vẫn còn tiếp diễn tới nay. Hợp tác này có thể là một hình thức yêu nước - patriotism và bày tỏ tinh thần đoàn kết - solidarity , kể từ khi hình thức quân phiệt mất hết uy tín. Khi có một yếu tố bên ngoài đe dọa Nhật, dù nhẹ nhàng đi nữa, chánh phủ , quản lý công ty, lao động thắt chặc lại hàng ngũ để đối đầu ngoại bang , thỏa thuận ngầm , để ra một bên, cạnh tranh và bất đồng nhau, sẽ giải quyết sau. Thành công lớn nhưng không phải duy nhất, tuy gây ra nhiều phản nộ ở ngoại quốc, là một cánh tay của chánh phủ Bộ Công nghệ và Thương mãi Quốc tế Ministry of Internatioanal Trade and Industry, biết tên theo tiếng Nhật hay tiếng Anh là MITI. Bộ này đóng vai trò khảo cứu , phát triễn và xác định những thị trường quốc tế tiềm thế xuất cảng . Nay còn tham gia đề cao cả nhập cảng nữa . MITI cũng còn khuyến cáo các ngân hàng chánh phủ cấp tư bản hiểm nguy - venture capital vài công nghệ được xem là sinh tử cho quyền lợi quốc gia Nhật ở một thời điểm nào đó. MITI hửu hiệu nhất khi bảo đảm được nhất trí - đồng thuận giữa chánh phủ, lao động và quản lý, trên những vấn đề và hướng chỉ đạo phát triễn công nghệ.
Vai trò kỷ thuật cao cấp - cao kỷ .
Cao kỷ không phải là xa xỉ phẩm mà là một thiết yếu cho Nhật. Đối với một xứ đảo tài nguyên thiên nhiên giới hạn , hầu sống còn trên thế giới hiện tại, thật là bắt buộc ngành công nghệ chế tạo nước nhà , phải có một thừa tố giá trị công thêm rất cao. Nghĩa là mỗi ngày mỗi nhiều thêm khéo léo chuyên môn, tri thức hiểu biết và phức tạp phải cọng vào càng ít nguyên liệu càng hay, lúc làm ra sản phẩm nếu muốn bán sản phẩm lợi nhiều. Lợi này cần có để trả tiền mua các nguyên liệu thô hiếm có và để duy trì mức sống tiêu chuẩn xã hội Nhật mới đã trở nên quen thuộc . Đó là ca- trường hợp của Vương quốc Anh thế kỷ thứ 19 và 20 và lúc này là của Nhật Bổn, mức độ còn cao hơn. Phân biệt giữa các khu vực của các nền kinh tế Nhật năm 1988 như sau : sơ cấp - nông nghiệp 2.3 % tổng số nền kinh tế, thứ cấp - công nghệ chế tạo 34.9% , tam cấp- dịch vụ với thừ a tố giá trị cọng thêm cao nhất 62.8 % . Giai đoạn cuối này đưa tới tên gọi là “ xã hội hậu công nghệ - post industrial society ”. Chính ở lảnh vực cao kỷ , gồm các sản phẩm ô tô và điện tử ( máy ti vi, các máy ghi âm viđêôcassette, robôt và computer ) Nhật, thật là trác việt, ưu tú.
Cú sốc dầu lữa
Không thể nói rằng là kinh tế Nhật tiên tiến không đứt quảng. Nhật không có nguồn dầu lữa nội địa , và cần nhập cảng hoàn toàn từ ngoại quốc . Suốt thời kỳ cú sốc dầu lữa 1973- 74, Nhật nhận 83% cung cấp dầu lữa từ các nước Ả Rập và Iran . Tháng 11 năm 1973 , các nước Ả Rập áp lực Nhật phải cắt đứt ngoại giao với Israel và chấp thuận cung cấp vỏ khí cho các nước Ả Rập. Đổi lại, các nước này sẽ tuyên bố Nhật là “ nước thân thiện “ và nhận cung cấp không ngừng dầu lữa. Nhật từ chối . Chánh phủ đã thi hành một dự án chống lạm phát, bớt tín dụng, thiết lập luật lệ dầu lữa khẩn cấp, và đông lạnh giá gạo. Ngân sách năm 1974 tuy gọi là “ ngân sách khắc khổ ” vẫn cao hơn những năm trước. Lạm phát 19 % là một vấn đề khó giải quyết. Năm 1974 cũng là năm thâm thủng cán cân thanh toán ( tiền tệ ) vì giá dầu lữa cao. Từ năm 1976 đến 1978, tình trạng cải thiện rỏ rệt. Lạm phát chỉ còn 3.5 %. Cán cân thương mãi quá nghiêng về Nhật đem lại gây cấn với Hoa Kỳ. Thủ tướng Fukuda hứa với tổng thống Carter giữa năm 1978, sẽ cố giảm thặng dư ngoại thương và giảm bớt xuất cảng sang Hoa Kỳ. Nhưng húa hẹn không thực hiện. Thiếu dầu lữa là vấn đề liên tục , gây ra thâm thủng cán cân tiền tệ một lần nữa vào năm 1979. Có nhiều dự án mở rộng sử dụng năng lượng nguyên tử , ngoài 21 nhà máy điện nguyên tử hoạt động năm 1980. 11 đơn vị mới đang được xây cất và thêm 3 nhà máy được dự trù , tăng số tỉ điện nguyên tử lên thêm 2/3 . Điện nguyên tử ở Nhật năm 1990 gần gấp đôi điện nguyên tử ở Anh và bằng 1/3 điện nguyên tử ở Hoa Kỳ.
Xuất cảng xe hơi
Từ năm 1955 , hảng xe hơi Đức Volkswagen là hảng bán nhiều nhất xe nhập cảng vào Hoa Kỳ . Xe Datsun Nhật khởi sự bán ở Hoa Kỳ năm 1960 và năm 1975 đã bán nhiều hơn Volkswagen. Năm 1976 , xuất cảng xe hơi Nhật trên mọi thị trường thế giới là cao nhất, kế theo sau xa là xe hơi Pháp . Năm đó, 62 % xe Nhật bán ở Hoa Kỳ sản xuất ở Nhật . Bộ Thương mãi Hoa Kỳ quy sự yêu chuộng xe Nhật là xe Nhật bán giá rẽ hơn , nổi tiếng về phẩm giá xe, và mạng lưới bán xe rất hửu hiệu . Ở thời điểm này, sản xuất ô tô Hoa Kỳ lớn hơn Nhật , nhưng đến giữa năm 1980, Nhật trở thành nước sản xuất xe hơi và xe vận tải - cam nhông lớn nhất thế giới .
Không có gì đáng ngạc nhiên là Hoa Kỳ phản ứng . Chủ tịch Nghiệp doàn Công Nhân Ô tô Thống nhất - United Automobile Workers Douglas Fraser nói hành động của Toyota và Nissan là “ bạo ngược” , xuất cảng không chỉ là ô tô mà còn là thất nghiệp sang Hoa Kỳ. Vì năm 1980, 200 000 thợ thuyền ô tô Hoa Kỳ thất nghiệp. Fraser đi Nhật, thuyết phục các hảng Nhật thiết lập sản xuất xe hơi ở Hoa Kỳ, giới hạn số xe hơi xuất cảng, nếu không sẽ bị hiểm nguy các rào cản luật lệ bảo hộ mậu dịch. Honda tuyên bố lập xưởng ráp xe ở bang Ohio. Toyota và Nissan dự tính những di chuyễn tương tự . Để tránh luật lệ bảo vệ mậu dịch Hoa Kỳ , chánh phủ Nhật tuyên bố tháng 6 năm 1981 là sẽ tự nguyện giới hạn xuất cảng xe sang Hoa Kỳ. Dự tính lập những công ty chung chế tạo ô tô thành thực tế: Isuzu/ General Motors ở Nhật năm 1982, Toyota / General Motors ở California năm 1983, Mitsubishi/Chrysler ở Illinois năm 1985, Nissan/Ford ở Ohio năm 1988.
Xuất cảng đồ điện tử
NipponTelephone andTelegraph ( NTT) và International Business Machines ( IBM ) thỏa thuận năm 1985 lập một mạng lưới computer ngay ở Nhật. Năm 1989, Toshiba lập nhà máy làm computer đầu tiên ở Âu Châu tại Regensburg, Đức . Công ty điện tử lớn nhất ở Nhật chấp nhận cho các hảng Hoa Kỳ và các nước khác làm bán dẫn - semiconductors thông báo trước về nhu cầu Nhật sắp tới , mục đích tăng 20 % về xuất cảng ngoại sang Nhật món đồ điện tử mới này , nhưng hoài nghi về giá trị thỏa thuận vẫn tồn tại. Đến năm 1994 , phần ngoại quốc ở thị trường Nhật là 14.4 % và không gia tăng . Tháng 6 năm 1992, MITI , trong một thế chuyễn động bất thường tuyên bố là cống hiến cho bất cứ ai khỏi trả phí thế hệ thứ 5 phần mềm ( nhu liệu )- software. Dự án thế hệ thứ 5 bắt đầu từ năm 1982 trên một cố gắng sản xuất computer với khả năng lý luận, cho nên “ thông minh nhân tạo - artificial intelligence ” của nó sẽ thực hiện được nhưng nhiệm vụ tỉ như chẩn bịnh , phân tích các vụ kiện cáo và thông hiểu ngôn ngữ . Dự án không đạt các kỳ vọng và đã bị hủy bỏ chánh thức . Tuy vậy, dự án thứ 5 có nhiều ảnh hưởng lý thú trên lịch sử computer - điện ( tử) toán. Dự án đã huấn luyện hàng trăm kỷ sư Nhật về khoa học computer tiên tiến . Chẳng hạn có khả năng thực hiện vài chức năng lý luận cao tốc nhờ sự giúp đở đến 1000 vi xử lý -processors song song. Nó còn báo động cho các kỷ sư Hoa Kỳ là sẽ bị hiểm nguy , bị bỏ theo sau xa về phát triễn. Một tổ hợp các công ty Hoa Kỳ được thành lập để hợp tác về khảo cứu căn bản. Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ khởi sự một dự án rộng rải, họa kiểu những hệ thống thông minh, kể luôn cả một hệ thống điều khiển xe tăng không người lái.
Tốc độ khảo cứu tuồng như gây ra một ưu điểm kiểu răng cưa trong việc phát triễn ti vi định nghĩa cao - high definition television ( HDTV ) . Ngân sách khảo cứu chánh quyền Bush cho HDTV năm 1990 là 30 triệu đô la Mỹ, đối với Nhật là 1 tỉ đô la . Năm 1991, tổng thống Bush cắt hết ngân sách khảo cứu này. 20 năm khảo cứu giúp Nhật sản xuất năm 1994 ( ? ) hệ thống tương suy - analog system sẳn sàng bán ra thị trường. May mắn là công ty Mỹ và ngoại quốc khác tiếp tục các con đường khảo cứu riêng cho mình và chuyễn sang kỷ thuật ti vi kỷ thuật số - digital television technology , một con đường Nhật không lựa chọn, làm cho kỷ thuật tương suy của Nhật lỗi thời …
( Phần lớn liên hệ đến Nhật đều trích dẫn theo sách “ Nhật Bổn “ xuất bản lần thứ ba năm 1994, của giáo sư sử học Tàu và Nhật W. Scott Morton , viện đại học Seton Hall )
( Irvine, Cali ngày 10 tháng 12 năm 2010 )
Trở lại Trang Khoa Học
|
|
|
|
|
|
|
Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 855078 visitors (2217696 hits) on this page! |
|
|
|
|
|
|
|