Có lẽ Việt Nam nên theo dõi cập nhật cho con em thêm hiểu biết căn bản tiến bộ ở ngành “ sinh học mới”, có nhiều áp dụng y khoa chăng ?:
Cái gì kiểm soát Hóa học Đời Sống hay cuộc Cách Mạng RNA
G S Tôn thất Trình
Ngày chúng tôi vào đại học, ngành sinh học đang mở đường mới nhờ phát minh DNA vòng đôi xoắn ốc , hình thành cuộc cách mạng DNA. Nay ngành sinh học đang tiến nhanh thêm, nhờ khám phá ra những mảnh cắt nhỏ bé - snippets của RNA , một đồng thuyền thường bị gạt bỏ của DNA, có chức năng điều hòa mọi thứ, mọi điều, từ tuổi thọ đến ung thư.
Con giun ( sâu ) quái đản giúp xác nhận gen
Một trong những cách mạng về khoa học cân đại , dựa vào phía sau lưng của một đột biến con giun ( con sâu ) quái đản . Nhờ rất ít tốm kém và dễ thao tác ở la bô , con giun Caenorhabditis elegans , phát triễn từ trứng thành giun chỉ trong 3 ngày và sản xuất ra vài trăm giun con, 3 ngày sau đó. Hầu hết mọi con giun này đều lưỡng tính - hermaphrodites, chứa các bộ phận giới tính cả đực lẫn cái và có thề làm ra cả tinh trùng lẫn trứng, cho nên mỗi sinh vật đều có thể tự thụ tinh . Và vì giun trong suốt và giun trưởng thành chỉ có 959 tế bào , phát triễn mỗi giai đoạn từ trứng đến trưởng thành có thể quan sát được dưới kính hiển vi và lập tài liệu chi tiết gần hoàn mỹ khi giun còn sống : một thành tựu do Sidney Brenner , một nhà khảo cứu và huyền thoại , thuộc viện đại học Cambridge tạo ra vào thập niên 1970 .
C. elegans đã lâu năm đã được yêu thích ở la bô sinh học, nhờ tính cách trong suốt, chu trình sinh sản cấp tốc, và khả năng đột biến khi được ra hiệu. Chỉ cần phóng xạ nó hay thêm chất gây đột biến hóa học - mutagens ở đĩa petri , đợi vài ngày để xem là loại con cái giun kỳ quái nào hiện ra . Cuối thập niên 1970 và thập niên 1980 , “nói chuyện giun - worm talks “ ( đó là tên gọi những thuyết trình, bài giảng về C. elegans, luôn luôn khởi đầu bằng mô tả phát triễn của con giun, tiếp diễn bằng bất cứ đột biến nào diễn giả thấy thích thú đáng tò mò, tìm hiểu.
Một “túi giun - bag of worms “ là một đột biến này. Dịch bản của C. elegans đã vô phúc, vì không có khả năng đẻ ra trứng, để chúng thụ tinh. Nó bị kẹt ở giai đoạn sớm nhất chu trình phát triễn giun, làm ra liên tiếp các tế bào ấu trùng giống nhau, trong khi thất bại hình thành các bộ phận và phần thân thể cần thiết cho đời sống sau đó , kể cả âm hộ, cần để nhận trứng ngoài thân thể chúng. Thành quả là một ấu trùng qúa khổ , quá kích thước, chứa vài tá con cái , cho nên mới có tên riêng này . Thế nhưng chúng không duy trì tình trạng này lâu dài. Victor Ambros , một nhà sinh học đại học Massachusetts giải thích : “ trứng ấp bên trong giun và các ấu trùng tiêu thụ mẹ và bò đi ra .
Mất 13 năm khổ công để xác định đột biến gen làm ra túi giun và RNA vi tiểu
Ambros nghe nói đến túi giun lần đầu tiên trong một thuyết trình năm 1979 của Robert Horvitz, người đã nghiên cứu C . elegans ở La bô Cambridge của Brenner . Lúc này, Ambros đang sắp xong tiến sĩ tại MIT, nghiên cứu chung với nhà sinh học đoạt giải Nobel David Baltimore . Vài tháng sau . ông làm học bổng hậu tiến sĩ với Horvitz . Ông này gợi ý khuyên Ambros cố gắng xác định gen ( gien ) - gene khiếm khuyết phát sinh quái đản là túi giun. Tiếp theo là những trận sửng sốt và khởi sự lại trong hơn một phần tư thế kỹ là tiến trào đưa đến mô tả ngày nay của Baltimore dưới danh nghĩa là ”tòan thể một sinh học mới “ .
Ambros mất 13 năm khảo cứu mới xác định và làm được trinh tự của gen khiếm khuyết có trách nhiệm tạo nên túi giun, một đột biến từ C . elegans mẹ bình thường; định vị trí gen ở nhiễm sắc thể 2 của hệ gen giun . Gen đột biến này mang tên là lin- 4 . Đặc biệt là gen này không làm mã số cho một protêin , như mọi người trước đó đã tin là mọi gen đều làm như thế cả. Mà làm ra một mảnh bé nhỏ tí ti RNA , một em họ phân tử của DNA, đơn giản. Phân tử RNA chỉ bằng một phần trăm kích thước một gen làm mã số cho một protêin điển hình, nhỏ bé đến nỗi thật là khó khăn tưởng tượng cho nó có một chức năng nào đó , nói gì tới sản xuất một đột biến đáng kinh ngạc là túi giun.
Công trình Ambros trên đột biến kỳ quái này, cống hiến những dấu hiệu đầu tiên là RNA có thể quan trọng hơn là bất cứ ai nghi ngờ. Nhưng mãi đến năm 2001, câu chuyện RNA này mới mở toang cửa cho mọi người biết rỏ . Đó là lúc những nghiên cứu cuối cùng đã thuyết phục được các nhà khoa học rằng những mảnh nhỏ RNA mà nay họ gọi tên là RNA vi tiểu- microRNA, đã điều hòa những tiến trình tế bào và di truyền suốt thân thể và là những thừa tố cực trọng qui định sức khỏe và bệnh tật.
Từ DNA đến RNA vi tiểu
Lịch lãm qui ước về gen làm gì và cách nào, nhân dịp kỷ niệm năm 2008 ngày phát minh ra gen cách đây 50 năm. Năm 1958, Francis Crick danh vang về vòng xoắn ốc đôi đã thiết lập “ giáo điều trong tâm của ngành sinh học phân tử - central dogma of molecular biology” , có thể tóm tắt trong 6 từ ngữ : DNA làm ra RNA ; RNA làm ra protein. Gen được đóng mã số trong DNA ở nhiễm sắc thể chúng ta. Chúng hiện ra như những đoạn tách biệt của 3 tỉ cặp đôi nucleotides , những” chữ cái” của mã số di truyền, làm những thanh ngang của vòng đôi xoắn ốc . Một trứng con người được thụ tinh, khởi sự cuộc đời với DNA trong hệ gen mình , một nữa của mẹ và một nữa của cha. Từ đó , lập ra chương trình cho khoảng 10 tỉ tế bào .Theo giáo điều trọng tâm, việc này xảy ra khi gen được phiên mã - transcribed thành RNA và RNA thành protêin. Sau đó RNA trở thành ngựa thồ của ngành sinh học, thúc đẩy những phản ứng hóa học bên trong tế bào , và kiểm soát biểu hiện , phiên mã và sao chép chính ngay cả gen nữa.
Trong hình ảnh này , RNA, một phân tử sợi duy nhất , tương phản với hai sợi đôi của DNA , được nhận thức là có trách nhiệm thứ yếu “ một loại phân tử nô lệ , sao chép từ DNA , theo một phương cách không đáng chú tâm “ theo lời Philip Sharp . một nhà sinh học MIT, cũng đã đoạt giải Nobel. Tin tưởng này chưa bao giờ bị lay chuyễn , ngay cả khi các nhà di truyền học nhận thức là chỉ khoảng 2% DNA trên tế bào người thật sự chứa gen làm ra protêin. Đa số phần còn lại bị thảy ra như thể “ DNA rác rưới- junk DNA “ , một từ ngữ do nhà di truyền học Nhật bổn Susumu Ohno đặt ra năm 1972 , hầu đánh bắt ý niệm là đa số DNA của chúng ta vô dụng , vì đó là các phần còn sót lại của virus cũ hay của DNA nay đã chết.
Khám phá RNA vi tiểu của Ambrose là một nhận thức đáng ngạc nhiên : một phần của cái gì được xem trước đó là DNA rác rưới bí mật ( nghĩa là 90% mọi DNA được liệt kê như vậy ) thật sự đã được phiên mã bằng máy móc trên các tế bào chúng ta thành những mảnh nhỏ RNA, những kẻ kiểm soát căn bản đời sống. Các phân tử RNA vi tiểu này , đã được nối kết với các bệnh tim và tiểu đường.; với các bệnh Alzheimer , Parkinson và các bệnh thoái hóa dây thần kinh ; với tuổi thọ ( ít nhất là trong giun ) , và với toàn thể quang phổ ung thư người, từ ung thư phổi , vú, dạ dày , tuyến tiền liệt , ruột già , lá lách đến ung thư nảo .
Thomas Cech, một nhà sinh hóa học viện đại học Colorado ở Boulder và đã đoạt giải Nobel về công trình về nhiệm vụ làm một enzyme của RNA nói , khi được hỏi là RNA liên hệ đến bệnh tật nào , trả lời là 100% , 100% mọi điều đang có trong thân thể . Cái nhìn sâu đậm đòi hỏi một tái xét căn bản về những gì chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã biết và cách nào gen hoạt động.
Các nhà sinh học và di truyền học nay tự thấy là tại sao họ lại bỏ quên tình trạng căn bản của sinh vật trong nhiều năm qua như vậy . Vì thật ra kỷ thuật cần thiết để tìm ra RNA vi tiểu đã có sẳn từ thập niên 1960. Một câu trả lời là họ không có lý do đặc biệt để nhìn xem. Baltimore nói: chúng ta mua khuôn mẩu là protêin là kẻ chơi trò phân tử tế nhị nhất ở những hệ thống sinh học . Thật thế, khi Ambros khám phá ra RNA vi tiểu đầu tiên , ông cũng không tìm kiếm nó . Ông có một vấn đề cần giải quyết: tìm gen nào có trách nhiệm lin-4 của túi giun và kiên nhẫn suy tư về điểm này, trong khi các nhà khảo cứu khác bỏ qua để tiến tới.
Một giải thích khác là , cũng như mọi khám phá khoa học đáng kể khác , tìm kiếm RNA vi tiểu đòi hõi một phối hợp đứng đắn tài năng, thời cơ và may mắn. Ambros tìm thấy một cộng tác viên hoàn mỹ ở bà vợ Candy Lee, một cán sự la bô.Theo Baltimore , họ đã theo dõi dữ liệu hơn là các thời trang khoa học . Họ chưa bao giờ quá tham vọng để đến nỗi lìa xa phương cách thực tế . Nói như vậy, không có nghĩa là nói họ thiếu thốn thúc đẩy làm khoa học tốt , nhưng chính họ đã không hề lo ngại rơi vào cạm bẩy khoa học. Ambros và Lee gặp nhau ở một lớp hóa học hửu cơ tại MIT, năm 1972 , khi Ambros học năm thứ hai và Lee học năm thứ nhất ban cử nhân . Họ bắt bồ nhau một năm sau và lấy nhau năm 1976 , năm Lee tốt nghiệp . Cả hai đều đến MIT để học vật lý học , nhưng Ambros chuyễn qua sinh học và di truyền học, vì Ambros nghĩ rằng hai ngành học hợp tài năng trí tuệ của họ hơn . Lúc đó chỉ có chuyện kể ở hai ngành này , và không cần phải thật giỏi toán để theo học ngành vật lý. Sau đó Lee cũng theo học sinh học , vì được trả lương lớn hơn làm cán sự la bô thay vì được tuyễn dụng sau khi tốt nghiệp cử nhân . Bà Lee không bao giờ theo học ban cao học, tiếp tục làm nhiều loại cán bộ cho các la bô hàn lâm ( kể cả la bô của Baltimore ) và ngành công nghệ sinh học . Rồi thi bà sang làm việc ở “ la bô gia đình “ , la bô Ambros.
Bị từ chối chức giảng dạy ở Harvard vì ban sinh học cho là khảo cứu không đủ uy tín ?
Sau 2 năm làm việc vói Horvitz ỏ MIT , cộng tác với Ruvkin, một hậu tiến sĩ , làm tinh dòng- clone lin-14 . một gen ngược của lin- 4 , năm 1984 , Ambros lập ra la bô cho mình ở đại học Harvard, phụ trách dự án lin- 4 , còn trao lai gen lin- 14 cho Ruvkin . Tại Harvard, Rhonda Feinbaum một hậu tiến sĩ , gia nhập la bô Ambros và Lee. Mục đích của họ là sử dụng các kỷ thuật di truyền cổ điển hầu định vị trí của gen lin - 4 trong DNA của giun , dần dần thắt hẹp dãi nucleotides liên can, mãi cho đến khi nào chỉ còn gen này mà thôi.Tiến trình này cần 4 năm.Tuy nhiên trước khi hoàn tất, Ambros đã phải trả giá đắt cho một công trình, theo Harvard không chứa nhiều hứa hẹn. Ông bị từ chối chức vụ giảng dạy ở Harvard , vì các bạn đồng nghiệp ở ban sinh học Harvard , xem công trình của ông không đủ khích lệ để giữ ông ở chức vụ . Năm 1992 , Ambros nhận một công việc ở Dartmouth , bang New Hampshire. Lúc này Lee và Feinbaum đã nhận thức là gen lin- 4 bé nhỏ một cách lạ lùng. Thoạt tiên, hai nhà khảo cứu thu hẹp vị trí có thể được của gen lin- 4 ở một trình tự DNA chỉ dài 700 nucleotides của một gen làm mã số protêin điển hình. Năm 1993, họ đã định vị trí gen ở một dãi DNA chỉ dài 70 nucleotides và qui định là mảnh nhỏ DNA này lại làm mã số cho một RNA nhỏ hơn nữa , chỉ dài có 22 nucleotides .
Trong lúc Lee và Feinbaum bận tâm theo dấu DNA của lin- 4 ở la bô Ambros , Ruvkin và các bạn đồng nghiệp ở Mass General đã xác định xong sản phẩm của gen lin -14 là một miếng điển hình của RNA truyền tin - messenger, loại làm cho việc xây đắp protêin dễ dàng hơn. Câu hỏi cực trọng là cách nào hai gen tương phản nhau. Ambros và Ruvkin gọi điện thoại cho nhau và đọc cho nhau nghe , những trình tự họ làm được trên màn hình. Ambros cung cấp RNA dài 22 nucleotides do lin- 4 tạo ra và Ruvkin RNA phiên mã làm mã số protêin của lin - 14 . Cả hai trình tự đều sánh ngang nhau. Theo ngôn ngữ ngành sinh học phân tử, mảnh nhỏ RNA của lin - 4 có thể “cặp baz đôi - base pair “ với RNA truyền tin lin - 14 .Ambros và Ruvkin đều khoông có chút gì nghi ngờ rằng RNA line- 4 có thể móc dính vào RNA phiên mã từ lin- 14 , và như vậy điều chỉnh được số lượng protêin tạo thành cuối cùng. Ý nghĩa thạt là sâu đậm. Không những RNA có vẽ hoạt động như thể một gen , mà đó là một gen kiểm soát trực tiếp bằng một mảnh RNA khác.
Tháng 12 năm 1993 , tạp chí Tế bào - Cell đăng tải một bài của Ambros về lin - 4 , song song với bài của la bô Ruvkin về lin - 14. Nhìn lui lại thì cả hai bài báo đã phóng lên cuộc Cách Mạng RNA và thay đổi bộ mặt của ngành sinh học cận đại. Nhưng lúc đó , họ đã hoàn toàn bị bỏ quên. .Điều đồ sộ lúc đó và hiện nay, theo lời Ruvkin, là các nhà khảo cứu đã chứng minh ra một gen khích lệ đã hiện diện suốt quang phổ bao trùm nhiều loài vậy từ giun sán tròn đến ruồi trái cây và con người. Nếu gen quan trọng , tiến trào sẽ duy trì nó , và chính gen này hay các gen tương đồng cũng sẽ được tìm thấy mãi mãi trên các sinh vật khác nhau. Thế nhưng năm 1993, các nhà khảo cứu đã làm trình tự được vài tá gen từ ruồi trái cây và con người , và cả hai gen lin- 4 cũng như lin- 14 đều không sánh ngang với các gen này. Giả thuyết là là cả hai gen lin - 4 và lin 14 đều không đáng để ý tới .
Tầm quan trọng của RNA vi tiểu ở y khoa
7 năm kế tiếp , chỉ rất ít người kể luôn cả Ruvkin và Ambros, tiếp tục đẩy mạnh thám hiểm xem chức năng điều hòa RNA lạ lùng của túi giun, có là một loại quái dị thế thôi hay là một điều gì khác . Cuối cùng các nhà khảo cứu ở la bô Ruvkin , đụng phải một đột biến kỳ quái khác của C. elegans , tên gọi là let-7 , nổ toang vào giai đoạn cuối của thể ấu trùng. ( chữ let có nghĩa là lethal - chết ) ) . Khi nhóm Ruvkin làm tinh dòng let- 7 , họ nhận thức sản phẩm một lần nữa là một mảnh nhỏ ngắn RNA , chỉ dài 21 nucleotide. Rỏ ràng là lin - 4 không đơn côi.
Năm 1999 , khi Ruvkin đã làm xong trình tự let- 7 , một phần đáng kể của các hệ gen - genomes ruồi trái cây và con người đã được làm đồ bản. Vây nên năm đó Ruvkin đã có thể nhìn xét một dịch bản gen let- 7 trên ruồi và trên người. Ông tìm thấy let- 7 trên cả hai. Ông viết cho mọi nhà khảo cứu sinh học trên thế giới, nghiên cứu về các sinh vật kỳ quái, hỏi rằng vậy chớ let- 7 có hiện diện ở loài nhuyễn thể - mollusks chăng ? Hay hiện diện trên hoa xuân biển - sea anemone không ? Và nhận nhiều trả lời là tìm thấy. Tìm ra dịch bản bình thường của gen let- 7 được duy trì xuyên qua một rặng dài sinh vật, chứng tỏ nó đã có chức năng và công dụng ích lợi trên tất cả chúng. Vài người còn gợi ý là trên con người gen let- 7 có thể kiểm soát tế bào tăng trưởng. Năm 2000 Ruvkin đăng tải trên tạp chí Thiên Nhiên, hai bài báo cột mốc. Bài thứ nhất báo cáo là let - 7 làm mã số cho RNA vi tiểu chỉ chứa 21 nucleotides. Bài thứ hai, 9 tháng sau, tiết lộ là la bô ông đã dò ra RNA let- 7 “ trên những mẩu một rặng dài các loài động vật “.
Năm 2001, chiếu theo các khám phá đáng ngạc nhiên này , 3 nhóm nhà khoa học chạy đua để khám phá điều họ ước đoán là có rất nhiều RNA vi tiểu. Một nhóm do David Bartel đại học MIT dẫn đạo . Nhóm thứ hai ở Đức do Tom Tuschi , vừa xong học bổng hậu tiến sĩ với Sharp lảnh đạo . Nhóm thứ ba , lẽ dĩ nhiên là gồm có Ambros và Lee , tuy tiền phong, nhưng ít có tài nguyên làm khảo cứu hơn hai nhóm kia. Tuy vẫn ở Darmouth , nhưng họ lại tuyễn thêm con trai thứ hai trong 3 con trai của họ , mới học năm đầu trung học đệ nhị cấp, đẻ làm lập trình computer cho nhóm 3 .
Cả 3 la bô , đều sử dụng kỷ thuật Tuschi đã phát triễn làm tinh dòng các phân tử RNA . Kết quả của ba nhóm , gồm cả thảy là 103 genes RNA vi tiểu đăng tải chung trên tạp chí Khoa học - Sciences ,tháng 10 năm 2001 . Tuschi đã xác định được 14 RNA vi tiểu từ các phôi ruồi trái cây và 19 RNA vi tiểu từ một dòng của tế bào ung thư người . Bartel đã xác định được 55 từ C. elegans , và Ambros , Lee 15 . Cả 3 nhóm đều nhận thức rằng họ mới khám phá ra một phần nhỏ RNA vi tiểu trốn núp trong các hệ gen các loài, phải còn có thêm được cả ngàn gen như thế.
Một năm sau , Carlo Croce, nay là giám đốc Chương trình Di truyền Ung thư Người ỏ viện đại học bang Ohio . báo cáo là bệnh ung thư máu tế bào bạch huyết mãn tính- chronic lymphocytic leukemia , CLL, loại thông thường nhất của bệnh, bị gây ra khi xóa bỏ mất đi hai gen RNA vi tiểu. Croce đã mất 7 năm tìm kiếm các gen gây ra CLL. Trong khoảng 70 % cả, ông tìm thấy biến vị, chuyễn chỗ ở một vùng đặc biệt của một nhiểm sắc thể nào đó , nhưng trước tiên ông không tìm ra được bất cứ một gen làm mã số cho protêin nào có trách nhiệm . Một khi những gen RNA vi tiểu đã được xác định, sự kiện là 2 trong số gen này làm đồ bản ở vùng vừa nói của nhiễm sắc thể. Croce nói: nhận thức là các đột biến ở các gen RNA vi tiểu có cơ gây ra một dạng ung thư thông thường là một tiết lộ đáng kể . Nó cho biết một hạng mới gen, có thể đóng vai trò chánh yếu trên bệnh.
Sau đó , các nhà khảo cứu khác khởi sự tìm ra nhiều nối kết giữa RNA vi tiểu và ung thư . Khảo cứu RNA vi tiểu bắt đầu lan rộng ỏ các ngành y khoa và sinh học, theo lời David Baltimore , như thể một lây nhiễm trong la bô vậy đó. Chẳng hạn, ở Viện Ung thư Dana Faber và Viện Broad , Todd Golub một chuyên viên về di truyền ung thư đã mất cả chục năm học hỏi cách nào xác định các u ung thư cấp tính theo mô hình của RNA truyền tin làm mã số protêin biểu hiện trên các tế bào chúng. Kỷ thuật chận bắt dấu tay phân tử của bệnh , có thể sử dụng làm đơn đặt hàng phép chửa trị chống trả hay nhất một loại ung thư đặc biệt của bệnh nhân. Golub ít để ý tới khảo cứu RNA vi tiễu, mãi cho đến đầu năm 2004, khi Horvitz điện thoại cho ông ta gợi ý hai người cọng tác với nhau
Thoạt tiên Golub nghi ngờ là RNA có thể đóng một vai trò trên ung thư, nhưng chứng cớ minh bạch đã làm tiêu tan nghi ngờ. Mô hình các gen RNA vi tiểu mở ra ở một loại u ung thư khác xa mô hình ở một loại u ung thư khác , và một lần nữa cũng hoàn toàn khác hẳn những gì thấy được ỏ các tế bào lành mạnh . Golub nói: thật rất khó khăn tìm ra một RNA vi tiểu ỏ hệ gen người mà không đóng hay mở một cách khác nhau xuyên qua các loại u ung thư khác nhau ở những mô khác nhau. Thật thế, khi Golub và các đồng nghiệp tiếp tục báo cáo , trong số 217 RNA vi tiểu đã được xác định đến nay , có thể hửu hiêu dùng chúng xếp hạng các u ung thư, hơn là 20 000 RNA làm mã số protein hiện được sử dụng làm chẩn đoán
RNA vi tiểu đã tỏ ra ích lợi , không những chỉ để xác định các loại ung thư khác nhau , mà còn chỉ cách chửa trị mới tiềm thế nữa.Thật vậy, Golub tìm ra là rất nhiều RNA vi tiểu ít tích cực ở ung thư - không kể đến loại ung thư- hơn là khi chúng ở mô lành mạnh . Golub tự hỏi : vậy chớ nếu tôi đóng RNA vi tiểu ở các tế bào u ung thư thì sao đây ? Các tế bào có để ý tới không/? Và quan sát rỏ rệt là các u ung thư tăng trưởng lớn thêm. Hành động ngược lại , nghĩa là tăng gia hoạt động của RNA vi tiểu có thể làm u ung thư nhỏ lại. Một khi thu hoạch cơ chế , một phép chửa trị sẽ trổi dậy.
Bây giờ , tuồng như làm tinh vi sản xuất protêin bằng cách tăng hay giảm hoạt động của RNA vi tiểu, có cơ dẫn tới những phép chửa trị cho một rặng bệnh rộng lớn. Ở kiểu mẩu mới cho ngành sinh học, protêin vẫn làm công việc nặng nhọc xúc tác các phản ứng và đóng hay mở gen, nhưng RNA vi tiểu điều hòa số lượng protêin, như thế cách nào một công việc đặc thù được thực hiện. Tối thiểu, thành quả là một mạng nhện phức tạp không tả nổi của những tín hiệu tế bào, thường xuyên làm việc cùng nhau ( hay chống đối nhau ) để điều chỉnh số và loại protêin biểu hiện trong một tế bào và như thế , cuối cùng ra , tính cách lành mạnh của chính ngay tế bào. Đám mây bao phủ khắp noi của việc RNA vi tiểu điều hòa là hệ thống hồi tiếp nhìn xa . Mỗi khi môt gen được mở ra và sẳn sàng phiên mã, hầu làm ra một protêin, nó có thể tạo ra một hay nhiều RNA vi tiểu , có thể lần lượt khởi động một quang phổ điều chỉnh cùng một lúc hay thay đổi suốt tế bào .
Ảnh hưởng rộng lớn
Bất cứ một bệnh nào có thành phần di truyền chưa xác định , một bảng liệt kê dài gồm có Alzheimer, điên loạn - schizophrenia , hổn loạn hai cực - bipolar disorder , phì nộn, bệnh tim và tiểu đường- dều có thể chửa trị được ít nhất là một phần, bằng cách điều hòa gen làm mã số cho RNA vi tiểu . Nơi nào các nhà khảo cứu tự hỏi là liệu RNA vi tiểu có đóng vai trò trong một bệnh đặc biệt hay vấn đề sức khỏe không , những lúc rày, câu trả lời hầu như bất di dịch là có , vì chưng RNA vi tiểu xuất hiện ở mọi nơi , một phần nằm trong tính cách lành mạnh các bô phận và thiết yếu cho những thác đổ sinh hóa học , chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu biết.
Hảy lấy trường hợp của myosin, một protein chánh yếu trong cơ ( bắp thịt ) tim, và là protein được nghiên cứu nhiều nhất ỏ cơ sinh học- muscle biology, nhiều chục năm qua, theo lời của Eric Olson nhà sinh học phân tử viện đại học Texas, người đã nghiên cúu vai trò RNA vi tiểu ở mô tim và đứng ( hư hỏng ) tim. Olson nói: “chúng tôi tưởng là chúng tôi đã hiểu biết rỏ myosin , cách nào nó hoạt động , cách nào nó làm các cơ bắp co rút lại. Nhưng thật ra myosin chứa một bí mật chúng ta không hề biết. . Nó có một RNA vi tiểu núp trong một intron - vùng DNA không phiên mã của nó- nghĩa là một vùng DNA không làm mã số cho protêin. Và chính RNA vi tiểu này điều hòa rất nhiều đặc tính căn bản của cơ bắp. Nó kiểm soát khả năng của tim phản ứng với tai nạn và phản ứng với hormone của tuyến giáp trạng - thyroid , một tuyến hạch điều hòa chánh yếu chức năng tim. Thật sự , nó có một vai trò sâu , rộng hơn ỏ sinh học cơ bắp bằng cách làm mã số cho RNA vi tiểu này “
Olson và các đồng nghiệp này khám phá ra những mô hình RNA vi tiểu khác nhau ở những dạng bệnh tim khác nhau và theo dõi dấu hiệu tiến triễn bệnh tim bằng những thay đổi dần dần RNA vi tiểu. Họ đã tạo ra những con chuột được bảo vệ khỏi đứng tim bằng cách lấy đi một gen RNA vi tiểu từ hệ gen chúng . Họ cũng làm ra những con chuột rất dễ bị đứng tim bằng cách làm công nghệ di truyền chúng, để biểu hiện quá lố những gen RNA vi tiểu đặc thù. . Chiếu theo những khám phá này, rỏ ràng là RNA vi tiểu là những mục tiêu phát triễn ra thuốc và rất có thể làm thành thuốc chính ngay mình nữa . . Olson nói : nay chúng ta đã biết là các RNA vi tiểu cá nhân điều hòa nhiều khía cạnh, nhiều bộ mặt cho bệnh tim. Cho nên chúng ta có cơ phát triễn những chiến lược điều hành hay ức chế những RNA mầm gây bệnh
Cách mạng RNA sẽ đi về đâu, không thể nào tieên đoán nổi. Tiết lộ trổi dậy quá mau lẹ , khiến các nhà khảo cứu mô tả đó là vừa đáng hào hứng , vừa đáng kinh sợ. Ambros và Lee vừa dọn la bô về viện đại học Massachusetts ở thị trấn Worcester, lấy làm ngạc nhiên về phẩm giá và số lượng tài năng đổ tràn vào lảnh vực , trước đây là một vùng khoa học nước cô đọng. Và họ báo cáo cảm giác siêu thực, thấy họ đứng hàng đầu trò chơi.
Ambros nói : bạn có vài người ở giới khoa học bạn ngưỡng mộ, tỉ như Phil Sharp và David Baltimore. Tham vọng của tôi là một ngày nào đó, sẽ có người lưu ý đến công việc tôi đang làm và thốt ra : “ công việc tốt lắm đó ,Victor ơi “. Cả hai nhà đoạt giải Nobel Sharp và Baltimore, sẽ hoạt động trong lảnh vực này mà Ambros tiền phong, là điều thật không bao giờ ngờ tới và thật vô cùng thích thú.