TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Khoa học gia W Boyle
 
Lên mạng ngày 21/5/2011

Cha đẻ máy chụp hình kỷ thuật số, nhà đọat giải Nobel Willard S. Boyle ( 1924- 2011 ) qua đời
G S Tôn thất Trình
 
                 Willard Boyle chia sẽ giải Nobel 2009 về vật lý học nhờ phát minh một linh kiện cách mạng làm hình ảnh , trung tâm của các máy chụp hình kỷ thuật số - digital cameras , đã chết ngày mồng 7 tháng 5 năm 2011 ở bệnh viện thị trấn Wallace, Canada . Ông thọ 86 tuổi và đã đau đớn vì bệnh thận.
                   Linh kiện làm hình ảnh kỷ thuật số - digital imaging device tên gọi là linh kiện mắc nối điện tính- charge-coupled device hay CCD  , giúp cho các kỷ sư lần đầu tiên tồn trữ một hình ảnh nhìn thấy được theo dạng kỷ thuật số, làm cách mạng hóa chụp hình ( chụp ảnh ) và  một lọat lảnh vực khác . CCD là con tim của điện thọai thông minh - smartphones , máy quay phim - camcorder , viễn vọng kính , các máy rà dò   gạch mã số siêu thị - supermarket bar code scanners, máy fax và máy rà dò . ( nhắc lại CCD là một trong những dụng cụ tân tiến trắc quang - photometry , ráp dàn trãi ở viễn vọng kính đo lường độ sáng rất mờ  ánh sáng các vì sao, hành tinh vũ trụ thiên hà trên phi thuyền Kepler của NASA- Cơ Quan Không Gian Hoa Kỳ , giúp Kepler khám phá ra 1235 thế giới mới hành tinh  bay quanh các vì sao không phải là hệ thống mặt trời ( hệ thống thái dương) mà cha ông chúng ta chỉ biết có 9 hành tinh, như Trái Đất, Sao Mộc , Sao Thủy , Sao Hỏa v.v…).               
                     Theo Ủy ban lựa giải thưởng Nobel tuyên bố khi trao giải, “ chụp hình kỷ thuật số đã trở thành một dụng cụ không thay thế được ở nhiều lảnh vực khảo cứu. CCD đã cung cấp những khả năng mới để nhìn thấy những gì trước đây chưa thấy được. Nó đã cung cấp cho chúng ta những hình ảnh trong trắng ngần như pha lê ( tinh thể ) từ những nơi xa xăm của vũ trụ, cũng như bề sâu của những đại dương … Các phát minh này đã có ảnh hưởng lớn cho nhân lọai hơn là bất cứ một phát minh - sáng chế nào khác trong nữa thế kỷ vừa qua” .
        Mọi chuyện xảy ra ở một phiên họp đòi hỏi đóng góp mọi người tham dự đơn giản, mục đích thật ra hòan tòan khác hẳn. Mùa thu năm 1969, Boyle và nhà khảo cứu đồng nhận giải thưởng Nobel này là George E . Smith, cả hai làm việc tại La Bô Bell, tụ họp ở văn phòng Boyle  sau bửa cơm trưa, hầu suy nghĩ đến phương cách phát triễn một linh kiện bộ nhớ - memory mới cho máy computer . Trong vòng một tiếng đồng hồ, họ đã tiến tới một bản thô sơ của CCD .
                   Họ đã sử dụng ảnh hưởng quang điện - photoelectric effect, đã giúp cho Albert Einstein đoạt giải Nobel vật lý năm 1921. Tóm tắt, khi ánh sáng đụng vào một miếng silicon nhỏ, nó đẩy các electron ra khỏi những quỹ đạo chúng . Nếu silicon đã hình thành ra những tế bào quang học - photocells, mỗi tế bào hành động như một giếng   chụp bắt và giữ lại các electrons, một thời gian lâu dài hơn .
                    Đột phá then chốt của Boyle và Smith là vẽ ra một phương cách đọc ra những số lượng và vị trí những electron bị chụp bắt ở giếng trong một dàn trải pixels. Ở một dàn trải 10 -với(by)-10, chẳng hạn, dữ liệu được chuyễn hóa thành một dây chuyền nồng lượng electron dài 100 pixels . Chúng có thể chuyễn hóa ngược lại thành những thông tin nhìn thấy được.
                 Trong vòng một năm, hai ông đã bỏ đi thôi nghĩ đến linh kiện bộ nhớ và sản xuất ra một máy chụp hình kỷ thuật số. Hai năm sau , hảng Fairchild Semiconductor- Bán dẫn  sản xuất một máy chụp hình kỷ thuật số đầu tiên nhỏ ( theo mẩu mực cận đại ) 100 pixels- với - 100 pixel máy dò quang học - photosensor ( tổng cọng là 10 000 pixels ). Máy sản xuất đại trà vài năm sau. Đến năm 1975, Boyle và Smith cũng đã sản xuất ra một máy chụp hình viđeô hoạt động được cho ngành ti vi.
                 Ngày nay,   các linh kiện làm hình ảnh CCD có thể vượt qúa 100 mega (một triệu, 106 ) pixels hầu cung cấp những hình ảnh cực kỳ rỏ rệt .
                Năm 1943, đang học ở Viện đại học McGill ở Montreal, Canada, ông bỏ học để vào Hải Quân Hoàng Gia Canada, hầu trở thành một phi công lái máy bay chiến đấu Spitfire, hạ trên các hàng không mẩu hạm. Chiến tranh chấm dứt, ông trở lại McGill và đổ tiến sĩ vật lý học năm 1950.  Sau một năm ở La bô Phóng Xạ McGill, và 2 năm dạy vật lý học ở trường đại học Quân sự Hòang gia Canada tại Kingston, ông sang Hoa Kỳ gia nhập La Bô Bell suốt đời sự nghiệp còn lại. Năm 1962, ông và bạn đồng nghiệp sáng chế ra laser hồng ngọc - ruby laser , được sử dụng rộng rải.   Ông cũng cùng đồng nghiệp David Thomas tham gia phát triễn laser tiêm vào bán dẫn, một bộ phận của nhiều linh kiện điện tử.  Từ năm 1964, ông làm việc ở một chi nhánh Bell cộng tác với NASA , giúp lựa chọn những vị trí đổ bộ của chương trình Apollo. Ông cũng đã nhận 13 môn bài   sáng chế then chốt và nhiều giải thưởng, ngoài giải thưởng Nobel. Bà Betty Joyce , vợ ông, lấy nhau 65 năm rồi, vẫn còn sống . Cũng như con trai David, hai con gái Cynthia vàPamela; 10 cháu  nội ngọai và một chắt .
                      ( Irvine, Nam Ca Li, ngày 19 tháng 5 năm 2011 )            
 
                     
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 780416 visitors (2069839 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free