TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Trường tôi..
 
Lên mạn ngày 1/1/2011
TRƯỜNG TÔI

Năm mươi năm thành lập Trường Đại Học Nông Lâm ,
Một trăm năm thành lập ngành đào tạo Thú Y tại Việt Nam


PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu
Bài viết nhân kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Thường thì khi cưới nhau được hai mươi lăm năm người ta tổ chức đám cưới bạc và cưới nhau được năm mươi năm người ta tổ chức đám cưới vàng. Năm nay, trường chúng ta tổ chức lễ Kim Khánh để mừng Trường vừa tròn năm mươi tuổi và cũng là dịp để chúng ta ôn lại một trăm năm thành lập ngành đào tạo thú y Việt Nam.

Năm 1974 để chuẩn bị phúc trình tốt nghiệp kỹ sư, anh Nguyễn Văn Kiểm có đề nghị tôi hướng dẫn anh tìm hiểu về việc đào tạo chuyên viên cao cấp ngành Thú Y và Chăn Nuôi tại Việt Nam. Tôi nhận lời vì biết anh rất gắn bó với ngành giáo dục nông nghiệp từ khi anh đến trường vào những năm đầu tiên khi trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao vừa được thành lập tại tỉnh Đồng Nai Thượng. Anh đã dành nhiều thời gian và công sức đến thư viện Quốc gia và thư viện Bộ Canh Nông tham khảo tài liệu, xin ý kiến của nhiều vị giáo sư, nhiều vị lão thành trong ngành nông nghiệp. Anh đã sưu tập, sao chép lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh thành lập trường, thành lập ngành giáo dục Thú Y qua các thời kỳ Toàn quyền Beau, Toàn quyền Sarraut, Toàn quyền Merlin, Toàn quyền Decoux và sau năm 1954 anh đã sưu tập lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh có liên quan đến việc thành lập Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, quy chế tuyển sinh, chương trình đào tạo, quy chế giáo sư cho đến năm 1974 là năm anh viết bảng phúc trình tốt nghiệp. Bảng phúc trình này hiện đang được lưu trữ và có thể tham khảo tại thư viện Đại Học Nông Lâm Thủ Đức Thành Phố Hồ Chí Minh.

(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu, người thứ hai bên phải, cùng nguyên Hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến trong chuyến công tác ở Hà Nội)
Hơn ba mươi năm qua từ đó cho đến nay một hệ thống giáo dục nông nghiệp được thành lập từ Bắc chí Nam, nhiều trường đại học, trung học nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi đã ra đời. Tôi thiết nghĩ nên có những công trình nghiên cứu, sưu tập lại các văn bản, các nghị định thành lập các trường, các văn bản hướng dẫn tuyển sinh, các chương trình đào tạo, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục nông nghiệp như công trình của kỹ sư Nguyễn Văn Kiểm đã thực hiện trước đây.
 
Theo báo cáo và các tài liệu mà anh Nguyễn Văn Kiểm sưu tập được thì từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX người Pháp đã thiết lập một hệ thống bảo vệ gia súc tại Việt Nam theo bộ luật ngày 22 tháng 7 năm 1881, đặc biệt là các điều 38 và 39 trong bộ luật này có liên quan đến chức năng của Sở Thú Y.

Vào năm 1904, người Pháp đã bắt đầu mở ngành đào tạo thú y sĩ tại Việt Nam để phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, thanh tra thú sản. Nhiệm vụ đào tạo bác sĩ thú y sĩ lúc đầu được giao cho Trường Y Khoa Hà Nội theo nghị định ngày 25 tháng 10 năm 1904 của Toàn quyền Beau về việc tổ chức lại trường này. Đến năm 1910 Ban Thú Y của Trường Y khoa và bệnh xá thú y được cải biến thành Trường Thú Y Bắc Kỳ tách ra khỏi Trường Y Khoa và được đặt dưới sự chỉ đạo của Thống sứ Bắc Kỳ theo nghị định ngày 11 tháng 8 năm 1910 của Toàn quyền Klobukowshi.

Đến năm 1917 Trường Thú Y Bắc Kỳ được cải biến thành Trường Thú Y Đông Dương theo nghị định ngày 15 tháng 9 năm 1917 của Toàn quyền Sarraut.

Đến năm 1922 ngoài bệnh xá thú y, Trường Thú Y còn có Phòng thí nghiệm nghiên cứu thú y theo như nghị định ngày 18 tháng 11 năm 1922.

Nghị định ngày 24 tháng 3 năm 1925 của Toàn quyền Merlin ấn định quy chế hoạt động và học tập của sinh viên Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học tập của sinh viên là 4 năm sau khi tốt nghiệp Tú Tài và sinh viên phải trải qua một kỳ thực tập tại Viện Pasteur Nha Trang trong 3 tháng. Nghị định này cũng nói rõ hoạt động của Phòng thí nghiệm Vi sinh bao gồm cả Vi sinh, ký sinh, khám tử, bệnh xá thú y và dược phòng thú y của Trường.

Tháng 10 năm 1935 Trường Thú Y Đông Dương đóng cửa do khủng hoảng kinh tế và bệnh xá thú y của trường vẫn duy trì hoạt động.

Đến năm 1941 Trường Thú Y hoạt động trở lại theo nghị định ngày 28 tháng 4 năm 1941 của Toàn quyền Decoux.

Ngày 17 tháng 10 năm 1941 bệnh xá thú y Hà Nội lại được sát nhập vào Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học được rút ngắn xuống còn 3 năm rưỡi trong đó năm đầu sinh viên học tại Viện Đại Học Hà Nội cùng với sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, ba học kỳ kế tiếp học tại Trường Thú Y và năm cuối cùng học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Sang năm 1942 Trường lại cải tổ theo nghị định ngày 3 tháng 8 năm 1942 của Toàn quyền Decoux và chương trình vẫn giữ nguyên là 3 năm rưỡi được phân bố như sau: Năm đầu học tại Viện Đại học Hà Nội cùng với sinh viên Nông Lâm. Năm thứ hai và năm thứ ba học tại Trường Thú Y và học kỳ cuối học tại Viện Pasteur Nha Trang.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Trường lại đóng cửa do Nhật đảo chính.

Vào tháng 6 năm 1945 Trường mở cửa trở lại và có tuyển thêm khoá mới, nhưng khoá này chỉ học một năm rồi giải tán.

Đến cách mạng mùa thu, ngày 19 tháng 8 năm 1945 trường lại đóng cửa.

Vào khoảng tháng 2 năm 1946 trường mở cửa trở lại.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946 trường lại đóng cửa và sau đó trường được di chuyển vào Thanh Hoá để hoàn tất đào tạo khoá 1944 và sinh viên tốt nghiệp vào năm 1948.

Trường Thú Y Hà Nội, sau này là Trường Thú Y Đông Dương đã tồn tại trong tiền bán thế kỷ XX và những thú y sĩ do trường đào tạo đã phát huy tác dụng bảo vệ đàn gia súc, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng trong suốt thế kỷ qua. Những người con ưu tú của trường như bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhạc phụ của hai giáo sư Trịnh Văn Thịnh và giáo sư Ngô Bá Thành, phó giáo sư Điền Văn Hưng, phó giáo sư Trần Nhơn, phó giáo sư Nguyễn Vĩnh Phước, bác sĩ Vũ Thiện Thái, bác sĩ Nguyễn Lương, bác sĩ Nguyễn Bá Lương, bác sĩ Nguyễn Hữu Nghiệp, bác sĩ Lê Thước, bác sĩ Nguyễn Trọng Trử, bác sĩ Vũ Đình Chính, bác sĩ Tôn Thất Ngữ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Minh, bác sĩ Lê Văn Tứ,, bác sĩ Nguyễn Văn Tư, bác sĩ Lê Hội Phú đã để dấu ấn của mình trong suốt 50 năm qua, đã từng là những nhà giáo ưu tú, là những con chim đầu đàn trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, những nhà vi trùng học, nhà bệnh lý học gia súc, nhà ký sinh trùng học, nhà di truyền học, nhà dinh dưỡng học, nhà quản lý chăn nuôi lỗi lạc trong cả nước, là thầy của nhiều người thầy, đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên, đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu chăn nuôi thú y có giá trị phục vụ cho sản xuất và bảo vệ gia súc.
Sau hiệp định Genève năm 1954 Học viện Nông Lâm được thành lập tại miền Bắc và Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, tiền thân của Đại học Nông Lâm được thành lập tại miền Nam.

Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập theo nghị định 112 BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955. Trường đào tạo ba ngành Nông Lâm Súc. Trường gồm một cấp Cao đẳng đào tạo các kỹ sư dành cho các sinh viên đã học hết chương trình trung học thời gian học lúc đầu là 3 năm, sau này là 4 năm và cấp Trung đẳng đào tạo các kiểm sự dành cho các học sinh đã đậu bằng Trung học đệ nhất cấp, Trung học phổ thông hoặc học lực tương đương. Thời gian học là 3 năm. Ngoài ra còn có những khoá học theo mùa, theo các chuyên đề tuỳ theo nhu cầu( đào tạo các kỹ thuật viên cải cách điền địa, hợp tác xã, trồng hoa, chăn nuôi…).

Giáo sư đoàn của trường được tuyển lựa từ các chuyên viên cao cấp canh nông, thuỷ lâm, mục súc, được hưởng những quyền lợi cùng các khoản cung cấp cho các giáo sư đại học.

Trường trực thuộc Nha Học vụ Kỹ thuật và Thực hành Canh nông, Bộ Canh Nông. Khóa đầu tiên cấp Trung đẳng được khai giảng vào ngày 12 tháng 12 năm 1955 và khoá đầu tiên cấp Cao đẳng được khai giảng vào ngày thứ hai tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1959 và đã bế giảng vào ngày thứ bảy tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1962.

Nghị định 1361/BCTNT/NĐ/HC-2 ngày 26-3-1962 của Bộ Cải Tiến Nông Thôn đã chuyển giao nhiệm vụ và cơ sở Học vụ Kỹ thuật Canh nông và các trường trực thuộc về Bộ Quốc Gia Giáo Dục

Theo nghị định 1184/GD/TC ngày 24-8-1963 cấp Cao đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục tại Sài Gòn được cải biến thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn và do một giám đốc điều khiển, trực thuộc Nha Học vụ Nông Lâm Súc. Cũng theo nghị định này, kể từ niên học 1963-1964 thời hạn học tại Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc được ấn định là 4 năm.

Cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc được cải biến thành Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.

Theo nghị định 483/GD ngày 23-3-1967 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc trực thuộc Bộ Giáo Dục. Theo sắc lệnh 158/SL/VHGD/TN ngày 9-11-1968 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn được cải biến thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên.

Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp do một giám đốc điều khiển, có một phó giám đốc phụ tá. Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp gồm có ba trường: Cao đẳng Nông Nghiệp, Cao đẳng Thú Y và Chăn Nuôi, và Cao đẳng Thuỷ Lâm. Mỗi trường do một giám đốc điều khiển.
Theo sắc lệnh 174/SL/GD ngày 29-11-1972 Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp được cải biến thành Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Học viện có nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo và tu nghiệp cho các chuyên viên và cán bộ nông nghiệp cấp kỷ sư và các cấp cao hơn, sưu tầm, nghiên cứu, phát minh, phổ biến các kiến thức, kỹ thuật sản xuất và góp phần thiết lập các dự án nhằm phát triển các lãnh vực nông nghiệp.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp gồm các trường Cao đẳng Nông nghiệp, Thuỷ Lâm, Thú y và Chăn nuôi, các phòng thí nghiệm và cơ sở khảo cứu cần thiết để học viện có thể hoàn thành nhiệm vụ.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp đặt dưới quyền đều khiển của một viện trưởng, có một phó viện trưởng và một tổng thư ký phụ giúp về học vụ và quản trị. Bên cạnh viện trưởng có hội đồng tư vấn và hội đồng viện.

Theo sắc lệnh 010-SL-VH-GDTN ngày 11-1- 19 Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp, Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật và Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật được sát nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp được biến cải thành trường Đại học Nông Nghiệp gồm 5 ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp.

Ban Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật trực thuộc Trường Đại học Giáo Dục.



Sau ngày đất nước thống nhất, Tổng Cục Nông Nghiệp đã chỉ thị tổ chức lại Trường Đại học Nông Nghiệp-Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Ngày 8-12-1976, Bộ Nông Nghiệp đã ra quyết định đặt tên trường là Đại Học Nông Nghiệp IV với 4 nhiệm vụ:
• Đào tạo kỹ sư nông nghiệp về Trồng trọt, Chăn nuôi Thú y, Thuỷ sản, Cơ khí nông nghiệp nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
• Đào tạo kỹ sư lâm nghiệp cho đến khi Bộ Lâm Nghiệp chưa mở Trường Lâm Nghiệp riêng cho các tỉnh phía Nam.
• Bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, về quản lý kinh tế cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế cho các cấp và cơ sở.
• Thành nghiên cứu khoa học, vừa phục vụ cho nâng cao chất lượng đào tạo, vừa góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của sản xuất nông nghiệp cho các tỉnh phía Nam đặt ra, làm tròn nhiệm vụ trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhà trường xã hội chủ nghĩa.

Thời gian đào tạo mỗi khoá là 4 năm và thời gian bồi dưỡng mỗi khoá là từ 3 đến 9 tháng.

Năm 1985 Trường Cao Đẳng Lâm Nghiệp Trảng Bom được sát nhập vào Trường Đại học Nông Nghiệp IV và trường được cải biến thành Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.

Năm 1995 Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh được sáp nhập vào Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

Từ năm 2000 cho đến nay, Trường Đại học Nông Lâm được tách khỏi Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh và trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngay từ khi mới thành lập trường đã được giao nhiệm vụ :
• Giáo dục và đào tạo chuyên viên cao cấp nông nghiệp để cung ứng nguồn nhân lực chuyên môn cho hai lĩnh vực công và tư.
• Khảo cứu cơ bản và ứng dụng, cập nhật hoá và canh tân kỹ thuật nông nghiệp.
• Phổ biến các kiến thức mới và kỹ thuật tiên tiến về nông nghiệp để giúp nông dân tăng gia sản xuất.
• Ngoài việc huấn luyện về kỹ thuật sinh viên còn được trau dồi phương pháp lãnh đạo, quản trị xí nghiệp, tìm hiểu tâm lý người nông dân, giao tế với quần chúng trong công tác khuyến nông, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp.

Trong các khoá đầu từ năm 1959 (khoá I) đến năm 1963 (khoá IV) mỗi năm trường tuyển 60 sinh viên gồm 25 sinh viên ngành Nông khoa, 15 sinh viên ngành Lâm khoa, và 20 sinh viên ngành Súc khoa.

Từ năm 1964 (khoá V) mỗi năm trường tuyển 100 sinh viên và bắt đầu từ năm 1970 (khoá XI) mỗi năm trường tuyển 200 sinh viên gồm 110 sinh viên ngành Nông Khoa, 40 sinh viên ngành Lâm khoa, 50 ngành Súc Khoa. Trong số 200 sinh viên được tuyển, trường tuyển chọn riêng 20 sinh viên có bằng Tú Tài Nông Lâm Súc, xét tuyển miễn thi 5 kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm, Thú Y và 20 sinh viên dân tộc ít người đỗ Tú Tài từ hạng Bình thứ trở lên. Số 155 sinh viên còn lại sẽ được tuyển trong tổng số hơn 3600 ứng viên dự thi, bình quân tỉ lệ tuyển chọn 1/12.



Muốn vào trường, sinh viên phải trên 18 tuổi và dưới 30 tuổi tính đến năm tuyển sinh. Hạng tuổi có thể gia tăng thêm tối đa là 5 đối với các công nhân viên hoặc quân nhân. Có văn bằng Tú Tài toàn phần Toán học hoặc Khoa học thực nghiệm, hoặc tốt nghiệp cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao hay những cấp bằng tương đương phổ thông hay Nông Lâm Muc ngoại quốc. Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh. Đối với công nhân viên chức và quân nhân có đủ điều kiện nói trên phải được phép của cơ quan quản lý mới được dự thi.

Trong những khoá đầu kỳ thi tuyển bao gồm 6 bài thi viết:
• Luận Việt Văn thi trong 2 giờ, hệ số 2.
• Toán thi trong 2 giờ , hệ số 3.
• Lý Hoá thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Vạn vật (địa chất, thực vật, động vật) thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Pháp văn (một bài luận ) thi trong 2 giờ, hệ số 2
• Anh văn (một bài dịch) thi trong 1 giờ

Những bài thi Toán, Lý, Hoá, Vạn Vật, và dịch Anh văn có thể đáp bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp nhưng phải dùng một sinh ngữ cho tất cả 4 bài thi này.

Các bài thi được cho điểm từ 0 đến 20. Thí sinh nào có điểm 0 về các môn thi hay điểm dưới 4/20 về bài thi Pháp văn hay 2 điểm bằng hay dưới 4/20 về ba môn Toán, Lý Hoá , Vạn Vật sẽ đương nhiên bị loại.

Từ năm 1965 các môn thi tuyển sinh còn lại 5 môn: Toán, Lý Hoá, Vạn Vật, Pháp ngữ và Anh ngữ.

Từ năm 1968 trường xét cho nhập miễn thi vào năm thứ nhất tối đa là năm kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm và Thú Y có điểm trung bình từ hạng Bình thứ trở lên ( 12/20) và đã làm việc ít nhất năm năm trong phạm vi chuyên môn và được hội đồng giáo sư trường đề nghị. Cũng từ năm 1968 các môn thi tuyển còn lại 3 môn:
• Toán thi trong 45 phút
• Lý Hoá thi trong 45 phút
• Vạn vật thi trong 45 phút.

Cả 3 môn thi được tổ chức thi trong 1 buổi chiều. Bài thi được chấm điểm trên 100. Các thí sinh có điểm thi 0 sẽ đương nhiên bị loại. Các môn Toán, Lý Hoá thi theo chương trình lớp 12, ban B (ban Toán). Vạn vật thi theo chương trình lớp 11 và 12 ban A (Khoa học thực nghiệm).

Chương trình học bốn khoá đầu là 3 năm, từ khoá năm chương trình học là bốn năm, bình quân sinh viên học từ 2000 đến 2300 giờ lý thuyết và 1800 giờ thực hành. Chuyển ngữ được sử dụng là tiếng Pháp cho bốn khoá đầu, và từ khoá V tiếng Việt được sử dụng để giảng dạy. Năm học được chia làm 2 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 16 tuần.
Vào cuối mỗi năm học, năm thứ nhất và năm thứ hai sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự tổng quát nhằm giúp sinh viên hiểu được thực tế sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp. Cuối năm thứ ba và năm thứ tư sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự chuyên môn, tiến hành nghiên cứu một đề tài tốt nghiệp được một giáo sư hay một chuyên viên của Viện khảo cứu hoặc của Bộ Nông nghiệp hướng dẫn.

Đề tài thực tập tốt nghiệp phải là một vấn đề khoa học, kỹ thuật hay kinh tế. Bảng phúc trình trước đây gọi là luận trình được bảo vệ trước một hội đồng giám khảo gồm các giáo sư, giảng sư của trường hoặc chuyên viên của Bộ Canh Nông chuyên sâu về chuyên ngành mà sinh viên báo cáo.

Kể từ năm 1965, sinh viên ngành Nông khoa sau khi học 2 năm đầu có thể chọn các chuyên khoa: Nông học, Kinh tế nông nghiệp, Công thôn, Chế biến nông sản, Ngư nghiệp, còn sinh viên ngành Súc khoa có thể chọn chuyên khoa Chăn nuôi Thú y, Kinh tế nông nghiệp, Chế biến thực phẩm, Ngư nghiệp. Sinh viên Lâm khoa chỉ có thể chọn một chuyên khoa là Lâm nghiệp.
Kể từ năm 1971 Trường mở thêm chuyên ngành Giáo dục nông nghiệp.

Đến năm 1974 khi trường được sát nhập vào Viện đại học Bách khoa Thủ Đức, sinh viên lúc thi vào trường phải chọn một trong 5 chuyên ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp, Kỹ thuật nông nghiệp ngay từ đầu.

Khi mới thành lập trường chỉ mở ba ngành đào tạo: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa. Đến năm 1974 trường có thêm hai ngành đào tạo là Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp. Hàng năm quy mô tuyển sinh là 200 sinh viên.

Đến nay (năm 2005) trường đã phát triển thành một Đại học đa ngành đào tạo 36 chuyên ngành, với quy mô tuyển sinh 2700 sinh viên đại học mỗi năm. Đại học Nông Lâm hiện có 12 Khoa: Nông học, Chăn nuôi Thú y, Lâm nghiệp, Kinh tế, Cơ khí Công nghệ, Thuỷ sản, Công nghệ thực phẩm, Khoa học, Quản lý đất đai và bất động sản, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin và bốn bộ môn trực thuộc trường: Mác Lênin, Công nghệ sinh học, Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Cảnh quan và kỹ thuật hoa viên. Ngoài các Khoa, Trường còn có các Trung Tâm: Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, Ngoại ngữ, Tin học, Phân tích thí nghiệm, Đào tạo nghiên cứu tư vấn kinh tế xã hội, Công nghệ và thiết bị nhiệt lạnh, Năng lượng và máy nông nghiệp, Công nghệ quản lý môi trường và tài nguyên, Công nghệ sinh học, Nghiên cứu bảo quản và chế biến rau quả, Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật địa chính, Nghiên cứu công nghệ chế biến gỗ, giấy và bột giấy, Nghiên cứu cây công nghiệp nhiệt đới xuất khẩu, Bồi dưỡng văn hoá và luyện thi đại học.

Từ năm 1985 ngoài chương trình đào tạo đại học Trường được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.

Từ khi mới thành lập, trường đã mở rộng hợp tác với nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế. Thông qua chương trình hợp tác với Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Trường mở nhiều khoá đào tạo Thạc Sĩ về nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi cho sinh viên các nước Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) Mỹ Châu La tinh (Colombia, Nicaragoa) và Châu Phi (Ethiopia, Tanzania, Zambia, Zimbabwe). Được Bộ Nông Nghiệp và Bộ Ngoại giao Pháp tài trợ, bốn trường Đại học Thú Y kết nghĩa: Alfort, Lyon,Toulouse, Nantes đã giúp Đại học Nông Lâm mở một khóa đào tạo Thạc sĩ Thú Y thoả mãn đầy đủ các quy định của Bộ Giáo Dục và Đào tạo và đạt tiêu chuẩn quốc tế với một học trình 4 năm, trong đó có một năm học tiếng Pháp. Hàng năm Chính phủ Pháp đã cử 10 giáo sư đầu đàn, danh tiếng của bốn Trường Thú Y kể trên sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm, mỗi chuyến công tác kéo dài 3 tuần đến 1 tháng. Học viên là các cán bộ giảng dạy của các Khoa Chăn nuôi Thú y của các Trường Đại học Nông nghiệp, các Viện nghiên cứu và Trung Tâm Thú Y của cả nước. Thông qua chương trình hợp tác với Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon, Đại học Dijon , Đại học Thú Y Toulouse, Đại học Thú Y Nantes, Ðại học Montpellier, Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Đại học Auburn, Đại học Florida, Đại học New South Wales, Viện Công nghệ Á châu Trường đã tiến hành những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh theo dạng sandwich, một phần thời gian nghiên cứu sinh học lý thuyết, thực hành, tham khảo tài liệu và làm việc ở các phòng thí nghiệm ở nước ngoài, một phần thời gian tiến hành nghiên cứu trong nước. Kết quả của các chương trình đào tạo này nhiều nghiên cứu sinh đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ với lời khen của Hội đồng chấm luận án.
Nhiều nghiên cứu sinh Canada, Pháp đã đến trường triển khai các công trình nghiên cứu, hoàn thành nhiều luận án có giá trị được xuất bản thành sách như luận án của tiến sĩ Steve Déry của Đại học Laval hoặc các kết quả nghiên cứu đã đóng góp lớn trong phát triển nông nghiệp, được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như công trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Ba sa của tiến sĩ Philippe Cacot của Viện Quốc gia Nông học Paris Grignon và tổ chức CiRAD Pháp.

Trường Đại học Nông Lâm hiện nay đang hợp tác với 54 Đại học danh tiếng trên thế giới: ĐH Melbourne, ĐH New England, ĐH New South Wales, ĐH James Cook, ĐH Catholic Louvain la Neuve, ĐH Guelph, ĐH Laval, ĐH Sherbroke, ĐH Aarhus, Institut National Agronomique Paris Grignon, ĐH Thú y Alfort, ĐH Thú y Lyon, ĐH Thú y Toulouse, ĐH Thú y Nantes, ĐH Ensia Siarc Montpellier, ĐH Bordeaux 1, ĐH Tours, ĐH Nông nghiệp Purpan, Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Rheinland Pfalz, ĐH Meiji, ĐH Kobe, ĐH Osaka, ĐH Ehime, ĐH Kyushu, ĐH Pertanian Malaysia, ĐH Nông nghiệp Wageningen, Trường Quốc tế Nông nghiệp Larenstein, ĐH Central Luzon State, ĐH Silliman, ĐH Philippines tại Los Banos, ĐH Philippines tại Diliman, ĐH Nông nghiệp Thuỵ Điển, ĐH Quốc gia Chung Hsing, ĐH Ling Tung, ĐH Chiang Mai, ĐH Kasetsart, ĐH Khon Kean, ĐH Maejo, Viện Công nghệ Hoàng gia Mongkut Thonburi, ĐH Aberystwyth (Wales), ĐH Reading, ĐH Nottingham, ĐH Auburn, Trung Tâm Đông Tây Hawaii, ĐH Louisiana State, ĐH Hawaii, ĐH Texas Tech, ĐH Texas A & M, ĐH Florida, ĐH Iowa, ĐH Kỹ thuật California, ĐH Quốc gia Singapore, ĐH Sungkyunkwan, ĐH Nông nghiệp Hoàng gia Campuchia, Viện nghiên cứu Thuỷ sản Szarvas....thuộc các nước Anh, Bỉ, Campuchia, Canada, Đài Loan, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungary, Mỹ, Malaysia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Thuỵ Điển.


(PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải tại hội thảo sắn Quốc tế ở Hà Nội)


Trường cũng hợp tác với 30 tổ chức quốc tế: AAACU, AIT, AUF, CIAT,CIRAD, FFTC, IDRC, IPGRI, SECID, ESCAP- CGPRT, ACIAR, CSIRO, GTZ, HELVETAS, ICLARM, ADVRC, FAO, CIP, SEARCA, BIOTROP, SAREC, SIDA, IFS, Bread for the World, Ford Foundation, Trelink, CSI, KWT, MCC, SDC, IRRI, CIMMYT,WB, ADB.

(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải, trong Ban Tổ chức Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000)

Trong suốt năm mươi năm từ ngày thành lập đến nay Trường trải qua ba lần dời địa điểm: Đầu tiên Trường có trụ sở tại Bảo Lộc. Do chiến tranh Trường phải di chuyển về Sài Gòn vào cuối năm 1961. Trong lúc chờ đợi có trụ sở chính thức tại Sài Gòn, Trường phải mượn các giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm của Đại học Dược Khoa, Đại học Khoa học, Nha Khảo cứu Nông Nghiệp, Nha học vụ Nông Lâm Súc, Viện Quốc gia Vi trùng và Bệnh lý gia súc, Viện Pasteur Sài Gòn và Thảo Cầm Viên. Đến năm 1964 Trường có trụ sở tại số 14 và 45 Đại lộ Cường Để Quận Nhất Sài Gòn nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Ngay từ khi dời về Sài Gòn, giáo sư Đặng Quan Điện đã nhanh chóng tìm địa điểm xây dựng Trường tại Thủ Đức cạnh Trường Đại Học Khoa học và Đại học Sư Phạm tại Thủ Đức với diện tích 118 ha toạ lạc tại hai xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định và xã Đông Hoà - quận Dĩ An tỉnh Biên Hoà.

Cơ sở Đại học Nông Lâm ngày nay tại Thủ Đức được thiết kế bởi kiến trúc sư tài hoa Ngô Viết Thụ, Khôi Nguyên La Mã, người đã thiết kế Dinh Thống Nhất và nhiều công trình kiến trúc tráng lệ tại Việt Nam. Tôi có cái may được làm việc với anh Ngô Viết Thụ từ khi anh phác thảo bản thiết kế tổng thể khuôn viên của trường tại Thủ Đức.
Anh và tôi thường đi Thủ Đức thăm công trường xây dựng trường để kiểm tra đôn đốc tiến độ thực hiện cho đến ngày toà nhà Phượng Vỹ Đại Sảnh – Flamboyant Hall, các khu cư xá sinh viên và câu lạc bộ sinh viên hoàn thành (31.12.1973). Anh đã thiết kế mặt tiền của tòa nhà Phượng Vỹ theo những đường nét của chữ Nông theo Hán tự với mỹ ý luôn nhắc nhở chúng ta Vụ Nông Vi Bản lấy nông nghiệp làm gốc theo như diễn giải của anh với anh Nguyễn Thành Hải, anh Nguyễn Đăng Long, anh Châu Văn Khê và tôi về ý nghĩa của cách kiến trúc tòa nhà.

Phượng Vỹ Đại Sảnh được bắt đầu khởi công xây dựng tại Thủ Đức vào ngày 20 tháng 2 năm 1972 do hãng thầu kiến trúc Phúc Hòa thực hiện dưới nhiệm kỳ của bác sĩ Nguyễn Thành Hải. Lễ khởi công xây dựng Trường có đông đủ ngoại giao đoàn tham dự. Sau này nhiều công trình kiến trúc, nhiều đại sảnh, nhiều cao ốc, được tiếp tục xây dựng dưới nhiệm kỳ của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến.

Ngày nay, ngoài cơ sở chính tại Thủ Đức, Trường còn các cơ sở phụ 213 hecta tại Bình Phước, 20 hecta tại Đồng Nai, 15 hecta tại Long An, 2 hecta tại Mũi Né Bình Thuận.

Khi bắt đầu được thành lập Trường có bốn thành viên sáng lập đóng góp nhiều công sức để Trường càng ngày thêm phát triển. Tứ trụ của Trường là bác sĩ Vũ Ngọc Tân, giáo sư Lê Văn Ký, giáo sư Đặng Quan Điện, và giáo sư Bùi Huy Thục. Bác sĩ Vũ Ngọc Tân và giáo sư Bùi Huy Thục nay đã khuất bóng. Giáo sư Lê Văn Ký và giáo sư Đặng Quan Điện mặc dầu tuổi đã cao, đã hoặc ngoài tám mươi nhưng vẫn còn tiếp tục hoạt động trong công tác khoa học kỹ thuật, vẫn thường xuyên viếng thăm các trại chăn nuôi khuyến cáo công tác quản lý con giống, quản lý nông trại hoặc góp ý với chuyên viên công viên cây xanh làm đẹp các đô thị.

Bác sĩ Vũ Ngọc Tân là vị giám đốc đầu tiên của Trường, là người đến nhận nhiệm sở sớm nhất khi Trường mới có quyết định thành lập. Cùng với sinh viên các khoá đầu, thầy đã dành nhiều công sức, đổ nhiều mồ hôi nước mắt để khai sơn phá thạch, xây dựng giữa chốn rừng núi thanh tĩnh một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ có tầm cỡ so với các trường đại học trong vùng thời bấy giờ, biến nơi này thành một thị xã phồn vinh trù phú, một thời đã từng là tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, và nay là thủ phủ dâu tằm tơ của cả nước. Từ ngày đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo trường từ năm 1955 cho đến lúc mất vào tháng 5 năm 1981 trong suốt hơn một phần tư thế kỷ thầy luôn luôn gắn bó với trường luôn dành thì giờ cho sinh viên thân yêu của mình mặc dù có những thời kỳ thầy đảm nhận nhiều trọng trách ở Bộ Canh Nông nhưng không bao giờ thầy từ bỏ giảng dạy. Sau ngày đất nước thống nhất, thầy có đủ điều kiện để xuất ngoại đoàn tụ với gia đình vì cô là người Pháp và các con của thầy sinh sống tại Pháp nhưng thầy đã quyết định ở lại quê hương với các sinh viên thân yêu của thầy như cha xứ không rời bỏ giáo xứ ở lại để dìu dắc các con chiên. Thầy tiếp tục công tác giảng dạy ở trường dù sức khỏe thầy suy giảm nhiều do bệnh tim và thầy đã mất trong ngôi nhà mà thầy đã mua sau năm 1975 gần ngã tư Hàng Xanh.. Thầy đã ra đi trong vòng tay của những người thân trong gia đình, và tang lễ được cử hành trang nghiêm tại Thánh đường Mông Triệu. Đông đủ gia quyến, bạn bè thân hữu và sinh viên đã tiễn đưa thầy với muôn vàn thương tiếc, kính yêu. Thầy đã cống hiến cả cuộc đời cho trường, cho sinh viên, đã xây dựng khuôn viên trường tại Bảo Lộc thành một ngôi trường khang trang, xinh đẹp. Ngày nay nếu có còn phong thần theo như truyền thống lâu đời của dân tộc ta đối với những người có công sáng lập, khai phá thì thầy rất xứng đáng được vinh danh làm thần Thành Hoàng của trường tại Bảo Lộc như có lần anh Nguyễn Hiền Lương đã tôn vinh thầy như thế.

Tiếp nối nhiệm kỳ giám đốc của Bác sĩ Vũ ngọc Tân, trường lần lượt được sự lãnh đạo của giáo sư Đặng Quan Điện, giáo sư Tôn Thất Trình, bác sĩ Vũ Ngọc Tân lại một lần nữa đảm nhận chức vụ giám đốc trường, kế tiếp là giáo sư Bùi Huy Thục, giáo sư Phùng Trung Ngân, giảng sư Nguyễn Thành Hải. giáo sư Lê Văn Ký đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng Đại học Nông nghiệp từ đầu năm học 1974 - 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sau thời kỳ quân quản, Trường được sự lãnh đạo của kỹ sư Trần Hữu Khối, kỹ sư Nguyễn Phan. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, trường được sự lãnh đạo của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hanh. phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Dương Thanh Liêm tiếp tục lãnh đạo trường trong thập niên 90. Đương kim hiệu trưởng trường hiện nay là phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến, người con ưu tú đã trưởng thành từ trường.

Ngay từ ngày mới thành lập, ngoài các chuyên gia hàng đầu của Bộ Canh Nông và các giáo sư của Đại học Khoa học, Đại học Luật Khoa Sài Gòn, Đại học Kỹ thuật Phú Thọ được mời tham gia giảng dạy, trường còn nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của nhiều trường Đại học trên thế giới. Trường đã tiếp đón nhiều giáo sư thường trú đến từ Pháp, Đức, Mỹ, Bỉ. Các giáo sư Maurice Schmidt, giáo sư Tixier, giáo sư Pecrot, giáo sư Stevens, giáo sư Hoenninger đã thường trú tại Bảo Lộc và Sài Gòn trong suốt bốn khoá đầu. Các đại học kết nghĩa Georgia, Florida đã cử nhiều giáo sư và chuyên gia thường trú đến làm việc với trường cho đến tháng 3 năm 1975. Phái đoàn viện trợ kỹ thuật Pháp với nhiều chuyên gia của ORSTOM và các Viện nghiên cứu Pháp đã ở lại trường đến tháng 8 năm 1975.

Sau này được tổ chức SIDA – SAREC tài trợ, Đại học Nông nghiệp Thụy Điển thường xuyên cử tiến sĩ Brian Ogle, tiến sĩ Inger Ledin và nhiều Giáo sư đầu đàn của Thụy Điển sang nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Nông Lâm từ khi bắt đầu dự án Hệ thống canh tác/Chăn nuôi gia súc gia cầm tại Việt Nam. Tiến sĩ Thomas Reg Preston, chuyên gia tư vấn của dự án đã đến sống và làm việc tại Thủ Đức.

Từ năm 1993 đến 1997, Tổ chức Lương Nông đã cử tiến sĩ Kenji Sato đến mở văn phòng điều phối dự án sử dụng tốt hơn nguồn thức ăn sẳn có tại địa phương trong hệ thống nông nghiệp bền vững vùng Đông Nam Á cho năm nước Campuchia, Lào, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Đại học Nông Lâm được FAO chọn làm Trung tâm điều phối vùng cho dự án.

Từ năm 2001 cho đến nay, Trường được bốn nước trong khu vực hạ lưu sông Mekong Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam cử làm Trung tâm điều phối vùng cho Chương trình hợp tác nghiên cứu nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi do Tổ chức SIDA Thụy Điển tài trợ và Văn phòng điều phối được đặt tại Đại học Nông Lâm. Tổ chức HELVETAS - Thụy Sỉ cũng đã cử chuyên gia Rudy sang điều phối dự án Lâm nghiệp xã hội do tổ chức SDC Thụy sỉ tài trợ và Văn phòng của dự án được đặt tại Khoa Lâm nghiệp.
Chương trình viện trợ của Đức cũng cử chuyên gia trường trú sang làm việc với Khoa Bảo quản chế biến Nông sản Thực phẩm. Các Trường Thú Y Quốc gia Lyon, Alfort, Toulouse của Pháp đã cử nhiều giáo sư danh tiếng của trường sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm. giáo sư Barone, giáo sư Bost, giáo sư Euzeby, giáo sư Joubert, giáo sư Drieux, giáo sư Lamy, giáo sư Perpezat là những thú y chi bảo của nước Pháp và của thế giới. Ngành Nông khoa và Lâm Khoa cũng tiếp nhận nhiều giáo sư danh tiếng của Pháp như giáo sư Gaury, giáo sư Commun, giáo sư Roth, giáo sư Macari, Poliniere, Banchi, Chardin, Guichon, Rollet, Maurand, Rocher, Jolly.

Trong suốt năm mươi năm tồn tại, Đại học Nông Lâm đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên ưu tú. Nhiều cựu sinh viên của trường hiện đang đảm nhận nhiều trọng trách như lãnh đạo Bộ, lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các trường đại học, lãnh đạo các viện, các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, lãnh đạo nhiều sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sở Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo nhiều công ty quốc doanh cũng như công ty tư nhân do chính mình đứng ra thành lập, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.

Đó là những hạt giống mà trường chúng ta đã gieo, đã ươm trồng trong hai thập niên đầu của trường. Lúc đó trường chúng ta đã thực hiện một nền giáo dục đại học ưu tú, đào tạo nhiều nhân tài, nhiều kỹ sư có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp trong các thập kỷ vừa qua. Trong thời kỳ đầu trường chúng ta đã đào tạo những tinh hoa, số lượng tuy ít nhưng phẩm chất cao.

Trường chúng ta không ngừng vươn lên, đào tạo những chuyên viên có năng lực để đáp ứng các yêu cầu mới mà nông nghiệp của thế kỷ XXI đặt ra: Hiệu quả và chất lượng.
Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI nông nghiệp không những giải quyết an toàn lương thực thực thực phẩm, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm ở nông thôn, đẩy lùi nghèo khó , mà còn phải kết hợp hài hoà giữa phát triển, mở rộng diện tích canh tác với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sinh thái, giữ gìn cái đẹp tự nhiên mà Tạo hoá đã ban cho chúng ta.

Đó là một vận hội mới mà trường chúng ta sẽ nhập cuộc. Tôi tin rằng với tinh thần đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo nhà trường cũng như toàn thể giảng viên, cán bộ công nhân viên, sinh viên đồng tâm, hiệp lực cùng nhau chung sức, chung lòng. Đại học Nông Lâm sẽ hoàn thành sứ mạng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, mở rộng hợp tác quốc tế mà đất nước đang mong đợi.

Tồn tại trong suốt nửa thế kỷ qua, những người con đầu tiên đến với trường nay đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, có người còn, có người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng bà mẹ Nông Lâm thì vẫn còn đó.

Những người con thân yêu của mẹ sẽ gìn giữ, bảo tồn Trường như đại văn hào Victor Hugo đã bảo tồn nhà thờ Notre Dame de Paris khi viết truyện Thằng gù nhà thờ Đức Bà để Vương cung Thánh đường này tồn tại mãi mãi đến ngày hôm nay.

Đại học Nông Lâm sống mãi trong tâm tư, trong tình cảm nhiều người. Tên gọi Đại học Nông Lâm khắc sâu trong tâm trí, trong ký ức của nhiều người.

Hôm qua, hôm nay và trong mai sau Đại học Nông Lâm đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại trong tâm thức của nhiều thế hệ sinh viên và trong bạn bè năm châu bốn bể.


Ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực
Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu của trường


Đại học Nông Lâm xuất thân từ Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập do nghị định 112-BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955.

Từ ngày thành lập cho đến nay trường đã trải qua nhiều lần thay đổi danh xưng: Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao, Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài gòn, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp thành viên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, Đại học Nông nghiệp IV, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ chí Minh.

Trong suốt nửa thế kỷ, bảy lần thay tên, nhưng tên trường vẫn luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp trong danh xưng. Mặc dù nghị định thành lập trường được ban hành từ năm 1955 nhưng phải đợi bốn năm sau, năm 1959 khi các giảng đường, phòng thí nghiệm, nông trại, cư xá sinh viên được xây dựng khang trang và quan trọng hơn hết là đội ngủ giảng viên được tăng cường đầy đủ, trường mới chiêu sinh khóa đào tạo Kỹ sư nông nghiệp đầu tiên. Trong bốn năm đó trường đã đào tạo được hai khóa kiểm sự, khóa thứ ba đang đi thực tập tốt nghiệp, khóa thứ tư đang theo học năm thứ hai tại trường, khóa thứ năm vừa mới tuyển và bắt đầu nhập học năm thứ nhất tại trường.

Để chuẩn bị cho chương trình đào tạo Kỹ sư nông nghiệp Ban Giám Đốc trường đã có những bước đi rất thận trọng : xây dựng trường sở khang trang, đội ngủ giáo viên hùng hậu, tài giỏi, trình độ quốc tế, có uy tín trong giới đại học quốc tế. Một năm trước ngày khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên, Gáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện đã sang Pháp, viếng thăm các trường Đại học Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thú Y Pháp, được các trường và Chính phủ Pháp đồng ý viện trợ, cam kết sẽ cử các giáo sư có uy tín sang giảng tại Bảo Lộc, Ban Giám Đốc trường lúc đó mới có quyết định chiêu sinh.

Được trúng tuyển vào trường thời bấy giờ là những sinh viên ưu tú, trải qua một kỳ thi tuyển cam go sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần. Hai mươi lăm sinh viên giỏi nhất ngành Nông khoa, mười lăm sinh viên giỏi nhất ngành Lâm khoa và hai mươi sinh viên giỏi nhất ngành Súc khoa được tuyển chọn vào trường.

Tiếng Pháp là chuyển ngữ được sử dụng để giảng dạy trong bốn khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên. Chương trình đào tạo kỹ sư của trường thời bấy giờ là chương trình đào tạo tinh hoa: Đội ngủ giáo sư giỏi, trình độ quốc tế, sinh viên ưu tú, hiếu học, trường sở, phòng thí nghiệm, nông trại, thư viện được trang bị đầy đủ, môi trường học tập tốt.

Lúc khởi đầu ngoài bốn chuyên gia đầu đàn gắn bó với trường: Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Bùi Huy Thục trường còn có một đội ngũ giáo sư quốc tế hùng hậu thường trú tại Bảo Lộc gồm Tiến sĩ Maurice Schmidt (Pháp), Giáo sư Tixier (Pháp), Tiến sĩ Stevens (Mỹ), Giáo sư Hoenninger (Đức), Tiến sĩ Pecrot (Bỉ).

Để giải quyết việc giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở ngoài bốn giáo sư Việt Nam và quốc tế thường trú tại trường: Bác sĩ Vũ NgọcTân phụ trách môn Động vật học, Giáo sư Tixier phục trách môn Thực vật học, Tiến sĩ Stevens phụ trách môn Kinh tế đại cương và xã hội học, Tiến sĩ Maurice Schmidt phụ trách các môn Địa chất – Thổ nhưỡng, Khí hậu học, Giáo sư Bùi Huy Thục và Maurice Schmidt môn Nông học đại cương, Giáo sư Lê Văn Ký và Giáo sư Rocher phụ trách môn Lâm học đại cương, Giáo sư Đặng Quan Điện phụ trách môn Súc học đại cương, Kỹ sư Lê Minh Tâm phụ trách môn Hóa phân tích, trường còn mời thỉnh giảng Giáo sư Tiến sĩ Lâm Chánh Bình, Đại học Khoa học Sài gòn phụ trách môn Hóa học đại cương, Hóa Hữu cơ, Kỹ sư Trần Văn Bạch phụ trách các môn Toán, Lý. Trường cử anh Lê Ngọc Điệp trợ lý cho Giáo sư Tixier, anh Huỳnh Quang Hải trợ lý cho Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Kỹ sư Phan Như Hy và anh Trần Trung Ngôn trợ lý cho Tiến sĩ Stevens, anh Nguyễn Hoài Đỉnh trợ lý cho Giáo sư Maurice Schmidt, anh Lê Thiệp trợ lý cho Tiến sĩ Hoenninger.

Lên đến năm thứ hai và năm thứ ba ngoài các chuyên gia đầu đàn của Việt Nam Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Tôn Thất Trình, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Bác sĩ Lê Thước, Bác sĩ Nguyển Văn Trình, Bác sĩ Nguyễn Văn Tư, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Lê Văn Mười, Kỹ sư Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Trương Văn Hiếu, Giáo sư Bùi Huy Thục, Kỹ sư Đoàn Minh Quan, Kỹ sư Nguyễn Văn Oánh, Kỹ sư Nguyễn Văn Hiệp, Kỹ sư Lương Sĩ Chương, một số các môn học được các giáo sư Mỹ, Pháp, Đức, Bỉ, thường trú tại trường đảm trách. Đó là các Giáo sư Maurice Schmidt, Giáo sư Tixier, Tiến sĩ Stevens, Tiến sĩ Hoenninger, Tiến sĩ Pecrot.

Chính phủ Pháp đã cử Giáo sư R.Barone, Giáo sư Jack Bost, Giáo sư Jacques Euzéby, Giáo sư Joubert, Giáo sư Henri Drieux, Giáo sư Gaury, Giáo sư Macari, Giáo sư Commun, Giáo sư Jolly, Giáo sư Guichon, Giáo sư Rollet, Giáo sư Maurand, Giáo sư Chardin, sang giảng dạy tại trường.

Các giáo sư được cử sang Việt Nam giảng dạy là các giáo sư danh tiếng không những được kính trọng tại Pháp mà còn rất nổi tiếng trong các đại học quốc tế, đã từng có nhiều kinh nghiệm tại các nước nhiệt đới. Nhiều vị đã từng thực hiện nhiều công trình nghiên cứu tại Việt Nam. Các trường đại học Pháp đã cử nhiều giáo sư sang giảng dạy tại trường trong bốn khóa đầu.

Bắt đầu từ khóa năm, năm 1963 tiếng Việt được sử dụng làm chuyển ngữ chính ở đại học. Tuy nhiên đối với các giáo sư ngoại quốc, tiếng Pháp vẫn được sử dụng để giảng dạy.

Đội ngũ cán bộ giảng dảy tại trường dần dần lớn mạnh với nhiều chuyên viên danh tiếng của Bộ Canh Nông chuyển về trường trong đó có Giáo sư Tôn Thất Trình, Giáo sư Ngô Bá Thành, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Nguyễn Hữu Mưu và nhất là sự trở về của nhiều nhà khoa học trẻ tốt nghiệp từ Pháp từ Mỹ tham gia công tác giảng dạy thường trực tại trường.

Các phái đoàn Pháp được cử sang giảng dạy tại trường thưa dần. Chính phủ Pháp đã cử các chuyên gia : Kỹ sư Yves Banchi, Giáo sư Tiến sĩ Denis Nguyễn Phước Du, Tiến sĩ Trần Văn Nhiều, Giáo sư Lamy, Giáo sư Perpezat, Giáo sư Roth, Kỹ sư Durand, Kỹ sư Didier sang làm việc thường trú tại trường.

Từ năm 1964 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư đã hoàn thành chương trình đào tạo tại Pháp, tại Mỹ trở về tăng cường cho ban giảng huấn của trường. Từ Pháp về có có Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ, Kỹ sư Lucien Trọng. Từ Mỹ trở về có Bác sĩ Trần Quang Minh, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, Tiến sĩ Châu Tâm Luân, Tiến sĩ Bùi Văn Trợ, Thạc sĩ Trần Trọng Toàn.

Bắt đầu từ năm 1970 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ Kỹ sư tốt nghiệp ở Đức, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Canada, đã về nước tăng cường cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường. Trong số các chuyên viên này có Thạc sĩ Lê Văn Phong, Thạc sĩ Dương Đình Học (K.6), Thạc sĩ Lương Tấn Tước, Thạc sĩ Lê Ngọc Chí Minh (K.7), Tiến sĩ Tô Phúc Tường, Tiến sĩ Phan Hoàng Đồng, Tiến sĩ Trương Hoàng Lâm, Tiến sĩ Phạm Hồng Chương, KS Đặng Ngọc Sơn, Thạc sĩ Lê Dũng Dân, KS Trần Văn Duơng. KS Huỳnh Văn Quang cũng tham gia ban giảng huấn của trường phụ trách phòng thí nghiệm Hóa đất đai. Nhưng nguồn nhân lực đông nhất là các tân kĩ sư của trường. Các thủ khoa các á khoa các khoá khi vừa mới tốt nghiệp đều được trường giữ lại để làm cán bộ giảng dảy hoặc nghiên cứu,



Từ khóa đầu tiên cho đến khóa 12 tốt nghiệp vào năm 1974 đã có hơn bảy mươi Kỹ sư Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, được tuyển dụng vào ban giảng huấn của trường.

Đối với ngành Nông khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Nguyễn Lương Y (K.1), Nguyễn Đăng Long (K.1), Nguyễn Bích Liễu (K.2), Lâm Văn Thương (K.2), Dương Văn Đức (K.3), Trần Như Long (K.3) Lê Nguyên Khôi (K.3) Văn Khắc Thái (K.3), Nguyễn Ru (K.4), Võ Hữu Để (K.5), Nguyễn Bá Khương (K.5), Hồ Văn Lâm (K.5), Hàng Ngọc Ẩn (K.6), Võ Thị Hải (K.6), Nguyễn Thị Phụng (K.6), Nguyễn Ngọc Sâm (K.6), Thế Thị Hợi (K.7), Võ Thị Phương Lan (K.7) Lưu Trường Kiện (K.7), Trần Minh Tiên (K.8), Đổ Cao Thiện (K.8), Hồ Thại (K.8), Nguyễn Hoàng Hoanh (K.9),Trần Kiều Nga (K.10), Nguyễn Văn Tài (K.10), Dương Đình Hội (K.10), Lý Trung Di (K.11), Lý Hồng Sơn (K.11), Phan Gia Tân (K.11), Tạ Trung Chánh (K.12), Huỳnh Thành Nghiệp (K.12), Huỳnh Lệ Nguyên (K.12), Nguyễn Văn Thiện (K.8), Nguyễn Vác (K.11), Trần Ngọc Lâm (K.12), Lê Ấn (Dược sĩ).

Đối với ngành Lâm khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Đổ Cao Thọ (K.1), Đào Văn Tự (K.1), Vũ Văn Cử (K.4), Lâm Bình Lợi (K.4), Trần Hữu Trác (K.4), Hồng Văn Huỳnh (K.5), Nguyễn Tấn Văng (K.6), Võ Văn Thoan (K.8), Nguyễn Văn Thừa (K.8), Nguyễn Đức Bình (K.10), Nguyễn Văn Sở (K.10), Hoàng Hữu Cải (K.11), Châu quang Hiền (K.12), Lê Văn Mính (K.12), Lê Hữu Đức (K.12), Phạm bá Thành (K.11).

Đối với ngành Súc khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu (K.1), Nguyễn Đình Nghiêm (K.1), Ngô Thị Ngọc Diêu (K.3), Đặng Đắc Thiệu (K.3), Nguyễn Thúy Minh (K.6), Nguyễn Thị Nữ (K.6), Đặng Thị Sở (K.6), Trần Quốc Thăng (K.7), Trần Ngọc Đẳnh (K.8), Võ Văn Kiều (K.8), Phan Ngọc Sang (K.8), Huỳnh Văn Xương (K.8), Nguyễn Văn Tú (K.9), Lê Đăng Đảnh (K.10), Bùi Huy Như Phúc (K.10), Trịnh Công Thành (K.10), Nguyễn Văn Công (K.11), Phan Đức Duy (K.11), Lương Hà (K.11), Ngô Văn Mận (CT.K.2), Phạm Ngọc Thơ (K.11), Nguyễn Văn Gắc (K.12), Phan Thanh Hồng (K.12), Nguyễn Văn Khanh (K.12), Nguyễn Trọng Khôi (Dược sĩ), Trần Văn Phát (K.12), Trần Trọng Chơn (K.12), Phạm Chí Thành (K.11), Đổ Đình Hòa (K.11), Nguyễn Bích Nga (K.11).




Trong những năm 70 của thế kỹ trước Kỹ sư Bùi Như Hùng từ Viện Khảo cứu Nông nghiệp, Thạc sĩ Lê Da Tốn từ Bộ Canh Nông, Bác sĩ Phạm Hùng, Bác sĩ Vương Quang Phước từ Nha Học Vụ Nông Lâm Súc và Kỹ sư Phạm Minh Xuân (K.12), cũng vể tham gia ban giảng huấn của trường.

Đồng thời với việc giữ lại các kỹ sư trẻ mới tốt nghiệp, trường cũng rất quan tâm đến việc xây dựng ngành Khoa học cơ bản. Cùng với việc tuyển dụng sáu tân khoa khóa 1, Cử nhân Pham Thị Ngọc Chinh tốt nghiệp Đại học Khoa học Sài gòn cũng được tuyển dụng vào trường phụ trách ngành Khoa học cơ bản. Lần lượt từ năm 1965 đến 1970 tám cử nhân trẻ Toán, Lý, Hóa, Vạn vật được tuyển dụng. Tám cử nhân trẻ này gồm có Cử nhân Ngô huy Cần, Thạc sĩ Hà Dương Cự, Cử nhânTrần Tấn Đức, Cử nhân Phạm Thị Lộc, Cử nhân Trần Lê Nhân, Cử nhân Trần Hữu Tiếng, Cử nhân Nguyễn Hoài Chung và Cử nhân Nguyễn Tần. Đại học Khoa học Sài gòn không những là trường cung cấp cho trường chúng ta một đội ngũ cử nhân trẻ, tài năng, mà còn cử nhiều giáo sư đầu đàn của trường sang giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở tại trường chúng ta. Trong các giáo sư, các Tiến sĩ, các Thạc sĩ nầy chúng ta thấy có Giáo sư Tiến sĩ Phùng trung Ngân, Giáo sư Tiến sĩ Chu Phạm ngọc Sơn, Giáo sư Tiến sĩ Mai Trần ngọc Tiếng, Tiến sĩ Lê Công Kiệt, Tiến sĩ Đồng Sĩ Khiêm, Tiến sĩ Phó Đức Minh, Thạc sĩ Hoàng Mạnh Để, Thạc sĩ Bùi Thúc Thủy, Thạc sĩ Lê khắc Tích, Thạc sĩ Trần Thị Vinh, Cử nhân Đặng vĩnh Thanh.

Giáo sư Tiến sĩ Phùng Trung Ngân không những là giáo sư thỉnh giảng của trường trong nhiều năm mà còn tham gia lãnh đạo trường, giáo sư đã từng là Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1970.

Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng là trường cung cấp cho trường một lực lượng giảng viên hùng mạnh.

Các Kỹ sư Đồng Công Quan, Kỹ sư Đoàn Thành Trung tốt nghiệp kỹ sư công nghệ đã được tuyển dụng vào giảng dạy tại ngành Công thôn. Trường Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng đã cử gần mười giảng viên thỉnh giảng sang dạy tại trường chúng ta trong đó có các Kỹ sư Nguyễn Hữu Bình, Võ Ngọc Can, Nguyễn Thị Hiệp, Nguyễn Duy Thu Lương, Nguyễn Như Mộng, Phùng Lương Ngọc, Nguyễn Thành Ngưu, Phạm Hữu Tạt, Tôn Thất Thiều, Vĩnh Tiến, Phạm Văn Sanh.

Đại học Luật khoa cũng yểm trợ trường chúng ta đã cử Tiến sĩ Châu Tiến Khương, Tiến sĩ Nguyễn Trường sang giảng dạy các môn kinh tế tại trường chúng ta.

Cũng ngay sau năm năm đầu sau khi khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên trường đã nhanh chóng cử các giảng viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philipines, Thái lan để đào tạo. Trong năm 1963 Kỹ sư Lê Văn Ký đã được cử đi đào tạo sau đại học tại Đại học Wisconsin Mỹ. Năm sau đó 1965, Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu và Kỹ sư Nguyễn Đăng Long tiếp tục lên đường sang Mỹ để theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. Lần lượt các Kỹ sư Nguyễn Bích Liễu, Ngô Thị Ngọc Diêu, Kỹ sư Nguyễn Đình Nghiêm, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Lâm Văn Thương, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, tiếp tục lên đường sang Mỹ theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. trong hai năm sau đó 1966,1967.



Giáo sư Lê Văn Ký hoàn thành chương trình thạc sĩ trong 14 tháng, trở về Việt Nam năm 1964, Thạc sĩ Nguyễn Phố Lu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Lưu Trọng Hiếu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Long trở về trường năm 1970, Tiến sĩ Nguyễn Bích Liễu năm 1971, Tiến sĩ Châu Văn Khê năm 1971, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tân năm 1973, Tiến sĩ Lâm Văn Thương năm 1974.

Đồng thời từ năm 1969 đến 1975, trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại học Florida với trường chúng ta, lần lượt nhiều Giáo sư trẻ đã lên đường sang Florida để theo học các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ. Trong các giảng viên trẻ nầy chúng ta thấy có các Kỹ sư Lê Nguyên Khôi, Văn Khắc Thái, Trần Như Long, Dương Văn Đức, Nguyễn Ru, Hồ Văn Lâm, Võ Hữu Để, Nguyễn Bá Khương, Hàng Ngọc Ẩn, Lưu Trường Kiện, Đặng Đắc Thiệu, Trần Quốc Thăng, Đặng Thị Sở, Võ Văn Kiều, Trần trọng Toàn, Lê Da Tốn, Trần Hữu Trác, Hồng Văn Huỳnh, Trần Lê Nhân, Ngô Huy Cần, Hà Dương Cự.

Tiến sĩ Trần Trọng Toàn và Tiến sĩ Đặng Đắc Thiệu hoàn tất chương trình PhD nhanh nhất trở về nước năm 1974.

Trường còn tranh thủ nguồn học bổng của Chính phủ Pháp đã cử Kỹ sư Võ Thị Hải và Kỹ sư Đổ Cao Thiện, sang Pháp theo học chương trình đào tạo Tiến sĩ.

Trường cũng cử Kỹ sư Thế Thị Hợi sang Nhật học Kinh tế Nông nghiệp. Các Kỹ sư Võ Thị Phương Lan và Kỹ sư Võ Văn Thừa được cử sang Úc học về Côn trùng học và Lâm nghiệp.

Kỹ sư Nguyễn Hoàng Hoanh được cử sang Đại học Philipines tại Los Banos để đào tạo MSc và PhD trong khuôn khổ của chương trình SEARCA.

Các Kỹ sư Nguyễn Thúy Minh, Phan ngọc Sang, Huỳnh Văn Xương, được cử sang Đại học Chulalongkorn để đào tạo bác sĩ thú y, DVM.

Năm 1959 đồng thời với việc tuyển sinh vào khóa 1 chương trình đào tạo Kỹ sư Nông Lâm Súc trường cũng tuyển chọn các ứng viên đi du học tại Mỹ. Sau khi trúng tuyển một số ứng viên đã lên trường theo học năm thứ nhất tại Bảo Lộc để chờ ngày lên đường sang du học tại Mỹ. Trong số các ứng viên nầy có các anh Dương Trung Hưng, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Tiên, Trần Trọng Toàn.

Một số ứng viên khác ở lại Sài Gòn để học Anh Văn trong khi chờ ngày lên đường sang Mỹ du học . Các anh Vương Quang Hải, Châu Văn Khê, Châu Tâm Luân, Nguyễn Văn Tài, Tạ Cự Hải đã lên đường sang Mỹ vào năm 1959. Các anh Nguyễn Thành Hải, Trần Quang Minh, Ngô Đình Ngoan, Nguyễn Văn Hỷ, Phạm Phi Hoành, lên đường sang Mỹ sớm hơn.

Năm 1959 anh Nguyễn Viết Trương bạn đồng song của tôi ở Trung học Petrus Ký được học bổng của Chính phủ Úc lên đường sang Úc học tại Đại học Queensland, tốt nghiệp PhD vào năm 1968, trở về nước xây dựng Khoa Nông nghiệp Viện Đại học Cần Thơ.

Các sinh viên trung đẳng khóa 1, khóa 2, khóa 3, sau khi tốt nghiệp kiểm sự cũng được gửi sang Mỹ du học tiếp chương trình đào tạo BSc và một số đạt thành tích xuất sắc trong học tập được tiếp tục học lên MSc. Trong số các ứng viên nầy có các anh chị Phan Ngọc Châu, Nguyễn Quý Định, Lê Viết Dự, Lê Vinh Qui, Nguyễn Đình Mô, Nguyễn Văn Tràng, Phí Minh Tâm, Hoàng Vũ, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Nghệ, Châu Văn Hạnh, Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Thanh Tân, Vũ Quốc Dũng, Tống Ngọc Tiên, Lê Ngọc Diệp, Nguyễn Hoài Đỉnh, Nghiêm Xuân Thịnh, Nguyễn Thị Kỉnh, Hà Thị Liễu.

Đầu thập niên 50 các thầy Nguyễn Văn Mừng, Trương Đình Phú, cô Nguyễn Thị Quýt cũng đã lên đường sang Mỹ du học.

Không những gửi giáo viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philippines, Thái Lan trường còn tranh thủ chương trình học bổng SEARCA của tổ chức Hội đồng các Bộ Trưởng Giáo dục Đông Nam Á SEAMEO gửi các sinh viên sang Đại học Philippines tại Los Ba nos để đào tạo MSc và PhD .

Các sinh viên được hưởng học bổng này gồm các anh các chị Phạm Ngọc Hiệp, Nguyễn Tri Khiêm, Cao Minh Thư, Lý Tửng, Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Văn Ngưu, Bùi Xuân, Nguyễn Tịnh, Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Đức Cao, Trần Văn Trung, Lê Trọng Trung, Nguyễn Thái Vân, Phan Quang Vinh, Trương Văn Đến, Nguyễn Thị Tuyền, Lâm Hổ, Phạm Thọ Hiếu, Cao Văn Quảng, Hoàng Chí Cường, Lê Ngọc Sên, Phạm Bình Chạy…….

Ngay từ đầu mới thành lập trường rất quan tâm đến việc đào tạo các Kỹ sư Nông nghiệp có trình độ có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp khi hòa bình trở lại trên quê hương.

Trường luôn luôn tranh thủ mọi nguồn tài trợ để đào tạo nhân tài cho đất nước và chất lượng đội ngủ cán bộ giảng dạy được trường quan tâm hàng đầu.

Qua bảng danh sách các cán bộ của trường trong năm học 1971-1972 mà tôi có được chúng ta thấy được thực lực của ban giảng huấn của trường thời đó và chúng ta đã thấy được mối quan tâm của trường trong việc xây dựng một đội ngủ cán bộ giảng dạy có trình độ cao.

Khi viết bài này tôi cố gắng tìm lại trong ký ức hình ảnh của từng giảng viên đã từng giảng dạy ở trường. Tôi cố nhớ từng chi tiết sự việc, nhưng chuyện của bốn mươi năm, năm mươi năm về trước khó có thể nhớ cho hết, mà có nhớ chắc không sau tránh khỏi sơ xuất, sai sót, nhầm lẫn tôi mong được các bạn thông cảm và bỏ qua cho nếu có gì sai sót nhầm lẫn.

Viết về giai đoạn hai mươi năm lúc mới thành lập trường có lẽ hiện nay còn rất ít chứng nhân còn nhiều ký ức về giai đoạn nầy.

Đối với giai đoạn của trường từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến ngày hôm nay thì hiện nay ở trường có rất nhiều thầy cô đương nhiệm, có nhiều tài liệu để viết nên tôi mong rằng bài nầy sẽ là tiền đề để cho những bài nữa viết về giai đoạn ba mươi năm trở lại đây của trường. Nếu viết một bài bao quát đề cập đến gần hơn năm sáu trăm cán bộ giảng dạy khó quá thì từng khoa từng Bộ môn trực thuộc trường có thể viết về khoa của mình hoặc về bộ môn của mình.

Năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại trên quê hương, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức đứng trước tình trạng băng não, chảy máu chất xám trầm trọng. Nhiều cán bộ giảng dạy nhất là các con chim đầu đàn đã từ giả trường rời xa quê hương sống tha phương nước ngoài.Nguồi nhân lực mà trường đã dày công xây dựng phát triển trong suốt hai mươi năm từ ngày thành lập gần như mất trắng, trường lại quay về khởi điểm, khởi sự trở lại từ đầu.

Nhiều giảng viên đã được điều động từ các trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Bắc, Bắc Thái vào Nam tăng cường ban giảng huấn Nhiều tân Kỹ sư tốt nghiệp các khóa 13,14,15,16 và nhiều khóa sau nầy được tuyển dụng với số lượng lớn. Hàng năm từ 10 đến 20 cán bộ trẻ được giữ lại trường để giảng dạy hoặc nghiên cứu.

Trường không những giữ lại các sinh viên ưu tú của trường mà trường còn tuyển dụng sinh viên của Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Dược khoa về tăng cường ban giảng huấn. Số giảng viên cơ hữu của trường càng ngày càng gia tăng hiện nay lên đến 574 giảng viên gồm 16 Phó Giáo sư, 76 Tiến sĩ, 202 Thạc sĩ, 226 Kỹ sư hoặc Cử nhân.Thông qua con đường hợp tác quốc tế và thông qua quỹ đào tạo nước ngoài bằng kinh phí nhà nước trường tiếp tục phát triển nguồn nhân lực của trường như đã được đề cập trong phần hợp tác quốc tế của trường .

Nói về giảng viên trẻ của thập niên sáu mươi thế kỷ trước chúng ta không thể nào quên các anh Nguyễn Lương Y và anh Nguyễn Võ Mỹ bạn tôi, những người đã nêu tấm gương luôn phấn đấu vươn lên và tấm lòng vị tha luôn nghỉ đến người khác và nay hai anh đã đi xa khi tuổi vừa ngoài ba mươi. Anh Nguyễn Lương Y đổ vào trường khoá 3 Trung đẳng năm 1957. Trong quá trình học tập ở trường anh nhờ các thầy chỉ giáo tự ôn tập và thi đổ Tú tài Toàn phần và đăng ký dự thi vào cấp Cao đẳng. Với học lực của anh có thể sau khi tốt nghiệp Trung đẳng anh sẽ được Trường đề cử sang Mỹ học, nhưng anh đã chọn theo học Kỹ sư trong nước. Và anh đã đổ vào khoá 1 Cao đẳng. Cũng như các sinh viên tốt nghiệp từ các trường Trung học đào tạo theo chương trình Việt, tiếng Pháp của anh không giỏi như các anh chị học các trường Jean Jacques Rousseau, MarieCurie, Tabert, Couvent des Oiseaux, Yersin và trong thời gian học cấp trung học cơ sở anh lại học ở nông thôn các tỉnh miền duyên hải, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Ngãi Bình Phú chịu nhiều thiệt thòi hơn học sinh các trường ở các đô thị lớn ở miền Nam, nhưng anh đã có nhiều cố gắng, tự lực vươn lên phi thường để rồi khi tốt nghiệp ra trường anh đã thủ khoa ngành Nông khoa, viết một luận trình về Cao su do Kỹ sư Poliniere ở Viện Cao su Lai Khê hướng dẫn. Anh đã bảo vệ luận trình xuất sắc, được Trường giữ lại làm giảng nghiêm viên tức trợ lý giảng dạy. Do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ và được huấn luyện tại trường Bộ binh Thủ Đức. Không ai ngờ rằng anh đã văn hay mà võ cũng giỏi. Anh đã đổ thủ khoa khoá 16 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh tham gia cách mạng và tổ công tác của anh bại lộ, Anh bị bắt, trên đường đưa anh từ Quảng Nam (quê anh) ra Đà Nẵng xe chở anh trúng mìn và anh đã hy sinh. Tôi không bao giờ quên người bạn dễ thương dễ mến luôn luôn giúp đỡ mọi người, một con người của hòa giải ngoài tính hiếu học và ý chí luôn luôn vươn lên của anh.

Người bạn thứ hai mà tôi không bao giờ quên , anh Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ. Anh đã đi du học ở Pháp, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư Học Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon trở về nước lúc tuổi vào khoảng ba mươi. Anh là một Tiến sĩ Nông học trẻ có trình độ, học thức cao, người nho nhã, lịch sự, dễ thương, đối xử với anh em trẻ với tất cả tất lòng của một người anh. Anh ăn nói thật nhỏ nhẹ và rất thương sinh viên. Cũng như anh Nguyễn Lương Y do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ. Năm Tết Mậu Thân anh trực ở một đồn ở gần trường đua Phú Thọ quận 11. Thật ra hôm mồng một tết không phải ngày trực của anh nhưng vì có người bạn trẻ cũng thuộc gia đình nông nghiệp vừa mới lập gia đình nên anh bảo anh bạn để anh gát thay cho. Trong đợt tổng tấn công xuân Mậu Thân đồn của anh bị pháo kích dữ dội. Anh đã bị trúng thương và được đưa vào bênh viện giải phẩu. Tưởng rằng thoát khỏi cơn hiểm nguy anh sẽ bình phục nào ngờ anh mất vì nhiễm trùng sài uốn ván do hậu phẩu không được quan tâm kỷ lưỡng. Vì lòng vị tha thương người, luôn nghỉ đến người khác anh đã hy sinh

Lúc đó tôi đang học bên Mỹ. Được tin hai người bạn thân gục ngã tôi cầu mong sao đất nước được sớm thanh bình. Và hòa bình đã đến, đến mười năm sau đó.

Anh Nguyễn Lương Y, anh Nguyễn Võ Mỹ những người con ưu tú của trường đã nêu những tấm gương luôn phấn đấu không ngừng vươn lên, có con tim nhân hậu, tấm lòng vị tha bác ái mà chúng ta cần học tập và trường chúng ta không bao giờ quên hai anh.

Tôi đến với trường từ thuở trường mới thành lập nên tôi được biết nhiều về trường, tôi hay viết về chuyện thuở xưa, chuyện ngày xửa, ngày xưa. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ngàn năm nào dễ mấy ai quên nên tôi mãi đi tìm, tìm về quá khứ, tìm về giữa giấc mơ xưa, tìm về một thời vang bóng.




Nhiều bạn trẻ khuyên tôi đừng nếu kéo thời gian, quá khứ đã qua rồi hãy để nó chìm trong quên lãng, nhớ thương cũng hoài công thôi, hãy hướng về tương lai.

Tương lai nhiều hứa hẹn hơn, tương lai đầy sáng lạng hơn, tương lai rực rỡ hơn, tương lai huy hoàng hơn.
Anh em trẻ là người quyết định tương lai, nên theo lời khuyên của anh em trẻ mà tìm đường về tương lai.

Trở lại Trang KH&TH
 
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 855082 visitors (2217704 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free