Lên mạng ngày 14/8/2011
Bác sĩ Baruj Benacerraf, nhà đọat giải Nobel nghiên cứu hệ thống miễn nhiễm, qua đời
G S Tôn thất Trình
Bác sĩ Baruj Benacerraf , người chia sẽ giải Nobel 1980 về sinh lý học hay y khoa với công trình tiền phong , giải thích tại sao vài người, lại có khả năng đẩy lui lây nhiễm và u ung thư, trong khi những người khác lại không chống đở được. Ông mất ngày thứ ba mồng hai tháng 8 năm 2011, tại nhà ở TP Boston, thọ 90 tuổi (1920- 2011).
Benacerraf chết vì đau viêm phổi, theo Viện Ung thư Dana-Farber tại Boston, nơi ông làm sự nghiệp gần suốt đời. Bác sĩ Edward J. Benz JR. chủ tịch Dana-Farber nói trong một tuyên bố: những khám phá gieo mầm của bác sĩ Benacerraf về kiểm sóat di truyền của hệ thống miễn nhiễm giúp chúng ta hiểu biết được tiến trình căn bản bệnh tật, tỉ như lây nhiễm, các rối lọan miễn nhiễm tự động – autoimmune disorders và ung thư .
Công trình của Benacerraf tạo hình mọi thứ, từ cấy bộ phận đến chữa trị AIDS, và gần đây nhất đến phát triễn các vaccines – thuốc chủng chửa trị ung thư.
Khi Benacerraf và các bạn đồng lảnh thưởng: George D. Snell của La bô Jackson tại Bar Harbor - bang Maine và bác sĩ Jean Dausset tại Viện đại học Paris - Pháp, khởi sự nghiên cứu hệ thống miễn nhiễm sau Thế Chiến Thứ II, một thể thức chưa ai biết chức năng là gì cả . Qua nhiều thập niên, họ đã giải thích căn bản di truyền cách nào hệ thống miễn nhiễm họat động.
Snell mở đầu mối công trình trên chuột nhắt, chứng minh khả năng các lòai vật gặm nhắm- rodents này, nhận diện các mô chúng – own tissues và phân biệt chúng từ những mô chuột nhắt khác là thành quả những phức tạp protêin / đường ở trên mặt các tế bào tên gọi là kháng -gen( kháng nguyên ) – antigens. Ông đặt tên những cấu tạo này là kháng -gen tương hợp mô – histocompatibility , dùng từ Hy Lap “histo” có nghĩa là mô.
Snell cũng trinh bày rằng những kháng -gen này được tạo ra bằng một bộ gen đặc thù; nay gọi tên là phức tạp chánh tương hợp mô. Các nhà khảo cứu biết hiện nay có đến 80 genes riêng rẽ ở phức tạp trên chuột nhắt .
Dausset chứng minh là cũng có một lọai phức tạp tương hợp mô như vậy, trên con người. Thoạt tiên, Dausset nghiên cứu các kháng – gen trên các bạch huyết cầu và gọi chúng là các kháng – gen bạch cầu con người- human leukocyte anti -gens ( HLA ). Phân lọai HLA giúp cho các việc cấy ( bộ phận ) – transplants thành công, ít khi bị đào thải hơn là các mô lựa chọn ngẩu nhiên. Ông cũng trình bày là vài lọai kháng- gen HLA liên hệ đến khuynh hướng tăng thêm vài lọai bệnh tật.
Benacerraf , họat động trên chuột lang – guinea pigs , vấp phải phần ông đóng góp một cách bất ngờ. Ông tiêm vào các động vật mới một chất ngọai lai đặc thù tương tự một kháng – gen, có ý định gây ra một phản ứng miễn nhiễm trên chúng. Tuy nhiên chỉ có 60 % chuột lang phản ứng mà thôi.
Xuyên qua một lọat thị nghiệm cường tính tuyễn chọn, Benacerraf quyết định là khả năng chuột lang xây dựng lên một phản ứng miễn nhiễm cho một chất liệu ngọai lai, được các genes đặc thù của phức tạp tương hợp mô, kiểm sóat. Sau đó , những genes này cũng được tìm thấy trên con người và trên động vật có vú – mammals.
Các nhà khảo cứu biện cứ là các genes giúp ít nhất cho vài thành viên của một lòai vật, sống sót sau một tấn công của một virus đột biến hay của một vi khuẩn. Tiếc thay, những genes này cũng giúp phát triễn vài lọai bệnh miễn nhiễm tự động, trong đó hệ thống miễn nhiễm lại tấn công vài phần thân thể một con người .
Baruj Benacerraf sinh ngày 29 tháng mười năm 1920 tại TP Caracas, xứ Venezuela. Cha ông là dân Ma Rốc thuộc nhóm Do Thái Sephardic Jew và mẹ ông là người xứ Al-gê-ri. Gia đình di chuyễn về Paris khi Baruj lên 5 tuổi, hầu cha ông có thể mua tơ sợi đem bán ở Venezuela. Lúc còn là con nít, Baruj bị suyễn. Ông nói rằng sau đó bệnh suyễn đã góp phần làm ông thích thú ngành miễn nhiễm học và các bệnh tật miễn nhiễm.
Gia đình trốn chạy Đức Quốc Xã – Nazis năm 1939, đầu tiên qua Venezuela, rồi di chuyễn qua New York năm 1940, để Benacerraf có thể tiếp nhận giáo dục Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp viện đại học Columbia với một cấp bằng sinh học năm 1942. Nhưng ông bị đào thải, không được nhận vào 25 trường y khoa ông nạp đơn , vì lúc đó ông là một dân nguồn gốc Do Thái và khoông có quốc tịch Hoa Kỳ. Cuối cùng, cha một người bạn thân, bảo đảm cho ông được phỏng vấn ở trường đại học y khoa Virginia tại TP Richmond và ông vào trường năm 1942. Ông bị động viên một năm sau đó vào Lục quân Hoa Kỳ , song song với các sinh viên y khoa khác. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1945, ông đựoc tập sự ở Bệnh viện Queens General Hospital ở TP New York City.
Năm 1943 ông trở thành công dân Hoa Kỳ, và gia nhập Quân đòan Y Khoa Lục Quân năm 1946 và tùng sự gần 2 năm ở Paris và Nancy, Pháp. Sau 2 năm làm việc ở giảng khoa y khoa, viện đại học Columbia, ông di chuyễn về Paris năm 1949, để làm doanh vụ gia đình ông, nhưng vẫn tiếp tục khảo cứu y khoa. Vì ông không có quốc tịch Pháp, cơ hội tiến thân vào Hàn lâm Viện Pháp rất giới hạn, nên ông trở về Hoa Kỳ. Ông gia nhập trường Y Khoa New York và bắt đầu công trình về hệ thống miễn nhiễm .
Trong thời gian này, ông cũng quản trị một ngân hàng New York, là Colonial Trust Co., gia đình ông và những nguời liên hệ làm chủ nhân. Rồi thì ông rời khỏi thế giới doanh nghiệp để làm khảo cứu, vì ông thấy rằng thách thức lớn hơn nhiều cho khảo cứu y khoa, ngành ông lựa chọn.
Năm 1970, ông được mời giữ chức Trưởng ban bệnh học tại trường y khoa Harvard , trước đây đã không chấp nhận cho ông vào học. Một chục năm sau, ông biến thành Viện ( hiệu trưởng , chủ tịch ) Trưỡng Dana –Farber, cũng đã được kết nạp vào đại học Harvard. Lúc này trường phát triễn đồ sộ, nhờ ông tuyễn các bác sĩ lâm sàng và nhà khảo cứu chóp bu- đầu sọ , cũng cứu xét , theo dõi xây dựng hai cơ sở khảo cứu chánh.
Ông thôi giữ chức viện trưởng năm 1992, nhưng vẫn tiếp tục công trình khảo cứu của mình, mãi đến quá tuổi bát tuần. Vợ trong 68 năm của ông, bà Annette Dreyfus, chết tháng 6 năm 2011. Con gái , bà bác sĩ Beryl Banacerraf ở Boston , 2 cháu ngọai và em ông, Paul, ở Princeton, còn sống.
( Irvine, ngày 11 tháng 8 năm 2011 )