Lên mạng 13/11/2011
CÁ TRÊ SUỐI PHÚ QUỐC - Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011 – LOÀI CÁ MỚI CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI – CÓ DẤU ẤN CỦA NỮ ThS. ĐẶNG KHÁNH HỒNG, CHUYÊN GIA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN KIÊN GIANG (VIỆT NAM)
TS. Nguyễn Xuân Niệm (Phó Giám đốc Sở KH&CN KG)
The Catfish of Phu Quoc Stream - Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011 – New Fish Species of Vietnam and the World – with the Hallmark of MSc. Ms. Dang Khanh Hong, Expert in Aquaculture in Kien Giang (Viet Nam)
Nguyen Xuan Niem Ph.D.
(Vice Director of the Kien Giang Department of Science and Technology)
Trong khuôn khổ đề tài Khoa học & Công nghệ tỉnh Kiên Giang do ThS. Đặng Khánh Hồng làm chủ nhiệm, một sản phẩm giao nộp độc đáo đó là định danh loài cá, mới cho Việt Nam và thế giới có tên cá trê suối Phú Quốc, với tên khoa học Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011, vì trước đó chuyên gia Ng (chuyên gia phân loại cá trê) cùng cộng tác viên thuộc Viện Bảo tàng nghiên cứu sinh học Raffles thuộc Trường Đại học Singaporecòn được tìm thấy ở Campuchia, nên không thể đặt tên loài đặc hữu phuquocchinensis cho loài cá này, vả lại mà đặt tên loài gracilentus vì tiếng Latin là mảnh mai. Như vậy, cá trê suối Phú Quốc sẽ bổ sung vào Danh mục “cá trê” Việt Nam, nay đưa lên con số là 8 loài, còn bổ sung vào Danh mục “Clarias” thế giới, lên con số 114 loài.
Vị trí phân loại cá trê suối Phú Quốc trên thế giới như sau:
Ngành dây sống: Chordata
Lớp cá xương: Actinopterygii
Bộ cá nheo: Siluriformes
Họ cá trê: Clariidae
Giống cá trê: Clarias
Loài cá trê suối Phú Quốc: Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011
Cá trê suối Phú Quốc rất giống với C. nieuhofii, nhưng cá trê suối Phú Quốc có thân mảnh mai và dài hơn so với C. nieuhofii. Cá trê suối Phú Quốc cũng có thể phân biệt với C. nieuhofii bởi vây lưng và vây hậu môn không bao giờ dính với vây đuôi. Cá trê suối Phú Quốc có nhiều hàng đốm trắng nhỏ ở hai bên thân hơn C. nieuhofii (15–21 và 12–18).
Cá trê suối Phú Quốc khác C. pseudonieuhofii (một loài khác có hình thái tương cận cá trê suối Phú Quốc và C. nieuhofii) về khoảng cách giữa mấu xương chẩm và vây lưng; chiều rộng tấm răng tiền hàm và chiều rộng tấm răng lá mía; chiều dài đầu; và chiều dài vây bụng.
Bên cạnh, đề tài cung cấp những đặc điểm hình thái phục vụ cho định danh, đề tài còn cung cấp các đặc điểm sinh học cá trê suối Phú Quốc như:
Lược mang cá trê suối Phú Quốc có hình que, phân bố trên các đôi cung mang, cung mang thứ nhất có 17 – 20 lược mang, các lược mang ít phát triển so với cá dữ như cá lóc .
Cá có miệng rộng, với nhiều răng nhỏ và nhọn. Tấm răng tiền hàm và xương lá mía hình vòng cung liên tục. Vì vậy, đây là loài cá ăn tạp thiên về động vật. Cá trê suối Phú Quốc có thực quản ngắn, hình ống. Vách thực quản dày và ranh giới giữa thực quản và dạ dày không rõ ràng.Dạ dày rất phát triển, co giãn lớn. Ruột ngắn (< 1, thích hợp ăn động vật), gấp khúc và có vách tương đối dày. Phân tích mẫu thức ăn trong dạ dày tìm thấy các loại thức ăn phổ biến là cá (tần số xuất hiện 88,33%); cua (43,33%); côn trùng (kiến, mối, nhện,…) (35%) và một ít thực vật (5%). Chỉ số độ no có từ cấp 3 trở lên chiếm 80% và chỉ số no đầy chung là 148,2. Điều này cho thấy cá trê suối Phú Quốc là loài ưa thích ăn động vật và cường độ ăn rất lớn.
Phương trình tương quan giữa chiều dài (biến động 8,8 – 46,0 cm) và khối lượng (biến động 2,6 - 420 g) là W = 0,0037 L3,0747 với hệ số tương quan R2 = 0,9835, tương quan rất chặt chẽ. Khi cá còn nhỏ (< 25 cm) tăng trưởng chủ yếu về chiều dài; khi cá lớn hơn (> 25 cm) tăng trưởng nhanh về khối lượng.
Cá trê suối Phú Quốc dễ dàng phân biệt giới tính. Đối với cá đực, gai sinh dục dài hình tam giác, phía đầu mút nhọn. Đối với cá cái, không có gai sinh dục, lỗ sinh dục tròn, khi thành thục sinh dục có bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục phồng to và có màu ửng hồng. Cá đực thường có kích thước và trọng lượng lớn hơn cá cái. Tuyến sinh dục của cá trê suối Phú Quốc cái bao gồm 2 buồng trứng có dạng túi, hình ống hơi dài, phần đầu buồng trứng phình to và thuôn nhỏ dần về phía ống dẫn trứng. Bên ngoài có nhiều mạch máu phân bố. Đoạn cuối của các buồng trứng nhập lại với nhau thành ống dẫn trứng và mở ra ngoài lỗ huyệt. Trứng phát triển qua 6 giai đoạn. Noãn sào phát triển đồng pha, đẻ một lần trong năm. Tuyến sinh dục đực là hai dải nhỏ có hình chữ V, màu trắng xám nằm sát vào thành xoang bụng. Hai buồng của tinh sào không đều nhau với các thùy hình răng cưa, được kết hợp với nhau ở một đầu thành ống dẫn tinh và mở ra ngoài ở lỗ niệu-sinh dục. Tinh sào phát triển qua 6 giai đoạn.
Độ béo Fulton (F) thay đổi theo từng giai đoạn phát triển tuyến sinh dục. Đạt giá trị cao nhất (0,88) khi tuyến sinh dục ở giai đoạn II và giảm dần theo sự phát triển của tuyến sinh dục, vì cá không cần nhiều chất dinh dưỡng cho sự phát triển tuyến sinh dục nên dinh dưỡng chủ yếu tập trung tích lũy ở các cơ quan khác. Lúc cá có tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn III và IV thì lúc này các chất dinh dưỡng lại được huy động cho việc hình thành và hoàn thiện các sản phẩm sinh dục, chính vì vậy hệ số độ béo ở trong giai đoạn này là thấp nhất. Độ béo F cá cái giảm dần từ tháng 3 (0,82) đến tháng 5 (0,65). Điều này cho thấy chất dinh dưỡng cần thiết được huy động từ tháng 3 đến tháng 5 cho quá trình phát triển và hoàn thiện các sản phẩm sinh dục.
Kích thước và khối lượng thành thục sinh dục tối thiểu của cá cái và cá đực là (43 cm, 399 g) và (38 cm, 270 g) theo tuần tự; và lớn hơn cá trê vàng. Sức sinh sản của cá trê suối Phú Quốc cái thay đổi theo trọng lượng cá cái, dao động từ 17.733 trứng/kg ở cá 400 gr và 21.418 trứng/kg ở cá 900 gr, trung bình đạt 19.687 trứng/kg ở cá có khối lượng 660 gr. Rất thấp so với cá trê trắng 64.840 trứng/kg. Đường kính trứng dao động từ 1,5-1,7 mm, trung bình đạt 1,6 mm. Lớn hơn so cá trê trắng 1,0-1,2 mm.
Một kết quả nữa từ đề tài mang lại là kích thích cho cá sinh sản
Nuôi vỗ cá bố mẹ bằng thức ăn viên 30 đạm. Lượng thức ăn chiếm 3% trọng lượng cá theo thời gian nuôi vỗ và mỗi tuần bổ sung thức ăn tươi sống 1-2 lần. Sau đó kích thích cho cá sinh sản bằng HCG. Kết quả tỷ lệ cá rụng trứng là 100% và tỷ lệ nở đạt từ 50-65%. Thời gian ấp trứng dao động từ 32-36 giờ. Nhiệt độ lúc đó dao động 27-290C và pH dao động 7,0-7,5.
Cá bột sau khi nở 2 ngày, ương trong thùng mốp 15 ngày tuổi với mật độ 3.000-5.000 con/m2. Thức ăn là sữa bột kết với trứng nước (Moina), trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri) và thức ăn viên, tùy theo giai đoạn tuổi cá bột. Tỷ lệ sống sau 30 và 45 ngày tuổi là 18 và 8% theo tuần tự. Với đặc điểm thịt cá trê suối Phú Quốc thơm ngon, béo, dai,… nên giá hiện nay 150.000-200.000 đồng/kg (6-8 USD/kg) mở ra hướng nuôi thương phẩm giúp người dân xóa đói giảm nghèo, đồng thời phục vụ du khách khi đến Phú Quốc, hòn nhất xinh đẹp và lớn nhất Việt Nam. Cá trê suối Phú Quốc Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011 là một trong những dấu ấn đẹp cho sự nghiệp nuôi trồng thủy sản của ThS. Đặng Khánh Hồng./.
Cá trê suối Phú Quốc – Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011
(Trái) Cá ương 56 ngày tuổi; (Phải) Cá thương phẩm sau 14 tháng nuôi
The catfish of Phu Quoc stream – Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011
(Left) Fish seedling of 56 days old; (Right) Commercial fish after 14-months breeding
|
THE CATFISH OF PHU QUOC STREAM - Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011 – NEW FISH SPECIES OF VIETNAM AND THE WORLD – WITH THE HALLMARK OF MSc. Ms. DANG KHANH HONG, EXPERT IN AQUACULTURE IN KIEN GIANG (VIET NAM)
Nguyen Xuan Niem Ph.D.
(Vice Director of the Kien Giang Department of Science and Technology)
In the framework of the scientific and technological subject conducted in Kien Giang by MSc. Ms. Dang Khanh Hong as director, a unique product submitted was identifying new fish species for Vietnam and the world. It was named the catfish of Phu Quoc stream, with scientific name Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011, because that is previously the expert Ng (specialist in catfish classification) the cooperator of Raffles Biological Research Museum of the UniversitySingaporealso found in Cambodia, consequently we cannot name endemic species phuquocchinensis for this fish species, but named species gracilentus because in Latin it means thin, slender. Consequently, the catfish of Phu Quoc stream will supplement to the list “catfish” Viet Nam, now up to 8 species, also supplement to the world list “Clarias”, up to 114 species.
Locations classifying catfish of Phu Quoc stream in the world as follows:
Phylum Chordata
Class Actinopterygii
Order Siluriformes
Family Clariidae
Genus Clarias
Species Clarias gracilentus Ng, Dang & Nguyen, 2011
The catfish of Phu Quoc stream is very similar to C. nieuhofii, but catfish of Phu Quoc stream has slender and longer body than that of C. nieuhofii. The catfish of Phu Quoc stream can be distinguished from C. nieuhofii because dorsal fins and anal fins never attached to tail fins. The catfish of Phu Quoc stream has more small white spot lines at both body sides than C. nieuhofii (15–21 and 12–18).
The catfish of Phu Quoc stream is different from C. pseudonieuhofii (another species with morphology close to that of the catfish of Phu Quoc stream and C. nieuhofii) about the distance between occipital bone knots and back fins; the width of premolar plates and the width of vomer tooth planks the head length; and the length of abdomen fins.
In addition, the subject supplied not only morphological characteristics serving for identifying, it also supplied biological characteristics of the catfish of Phu Quoc stream such as:
Comb gills of the Phu Quoc stream catfish has rod form, distributed on pairs of curving fins, the first curving fin has 17 – 20 comb gills, comb gills less develop compared to fierce fish as snake-head fish.
Fish has a wide mouth; with small teeth and sharp, premolar plates and continuously curving vomer. Consequently, this is omnivorous fish almost animals. The catfish of Phu Quoc stream has short, cylindrical esophagus. Esophagus wall is thick and border between esophagus and stomach is not clear.Stomach well develops, considerably flexible. Intestines short (< 1, suitable to eat animal), broken and relatively thick walls. Analyzing food sample in stomach we found food types most popular fish (the frequency appears 88.33%); crab (43.33%); insects (ant, termite, spider,…) (35%) and some plants (5%). The saturation index from above level three accounts for 80% and the common saturation index is 148.2. This showed that the catfish of Phu Quoc stream likes eating animals and eating intensity is considerable.
The correlation equation between length (variation from 8.8 – 46.0 cm) and volume (variation from 2.6 - 420 g) is W = 0.0037 L3,0747 with R2 = 0.9835, very closely correlated. When fish is small, (< 25 cm) grow mainly in length; when fish is, bigger (> 25 cm) grow fast in volume.
The sex of Phu Quoc stream catfish was easily distinguished. With male fish, sexual prickles are long and of triangle form, pointed end. With female fish, they have no sexual prickle, sexual orifice round; when mature has big belly, evenly soft, sexual orifice swells out and rosy. Male fish usually have size and weigh higher than female fish. Sexual gland of the female catfish of Phu Quoc stream comprises of two ovaries of pocket shape, cylindrical rather long, ova yens swelling and tapering toward oviduct. Outside there is blood vessels distributed. The ends of ovaries integrate together in oviduct and open out of the orifice. Eggs develop via six stages. Ovaries develop co-phases, bear once in a year. Sexual glands are two small stripes with V form, gray white close to abdominal cavity wall. Two compartments of semen are not equal to each other with serrated lobes, combined with each other at one end in oviduct and open out the urinary sexual orifice. Semens develop via six stages.
The obesity of Fulton (F) changes with each development stage of sexual gland. It reaches the highest value (0.88) when sexual gland is in stage II and gradually reduced with the development of sexual glands, because fish do not need much nutrients for developing sexual glands consequently mainly concentrate accumulating in other organs. When fish has, sexual glands developed to stages III and IV then this time nutrients mobilized to form and to improve sexual products, consequently the obesity coefficient in this stage is the lowest. The obesity F of female fish reduced from March (0.82) to May (0.65). This showed that nutrients necessary mobilized from March to May for the process of development and improvement of sexual products.
Minimum sizes and mature sexual mass of female fish and male fish are (43 cm, 399 g) and (38 cm, 270 g) in order; and bigger than yellow catfish. The reproduction of the female catfish of Phu Quoc stream changes with the weight of female fish, oscillating from 17,733 eggs/kg of fish 400gr, and 21,418 eggs/kg of fish 900gr, average reaching 19,687 eggs/kg of fish with mass 660gr. Very low compared to white catfish 64,840 eggs/kg. The diameter of egg oscillates from 1.5-1.7 mm, average reaching 1.6 mm. Bigger compared to white catfish 1.0-1.2 mm.