Lên mạng ngày 28/8/2010
Vài Vấn Đề Về Toàn Cầu Hoá
Thái Công Tụng
1. Dẫn nhập về toàn cầu hoá
Vài ví dụ sơ khởi:
-Khi ta xem các trận đấu hockey, ví dụ giữa đội Canadien ở Montreal và New York Islander, ta thấy các cầu thủ của mỗi đội đến từ mọi xứ, từ Nga, từ Tiệp, từ Đức, từ Phần Lan và mỗi năm lại thay đổi mua bán cầu thủ .Điều này cũng đúng với baseball, vói bóng rổ, vói bóng tròn v.v.
-Nghe tin tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của Pháp, thì hình ảnh một sự cố nào đó mới xảy ra vài phút trước đó ở một nơi xa xăm trên hành tinh Trái Đất thì trên màn truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay, vừa hình ảnh, vừa tiếng nói.
-Nhìn bảng hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển dễ dàng; đặc biệt Âu châu có Euro là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du lịch từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne, qua Hoà Lan thì phải đổi đồng tiền sang mark,sang lire, sang peseta, sang florin.
-bệnh SARS (viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ Đông Nam Á và qua Canada do sự lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng.
-hàng năm, có chùng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu da, tôn giáo đến xứ này, đến hợp pháp ! Có thể nói mọi xứ từ A (A như Angola), đến Z (Z như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada, khiến xã hội Canada càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ trên đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá có nhiều ý nghĩa khác nhau với nhiều người. Toàn cầu hoá không phải giản đơn là sự di chuyển dễ dàng hàng hoá, công việc và vốn liếng qua các biên giới nhưng còn bao gồm cả những hợp phần văn hoá, môi trường và chính trị
2. Các yếu tố khách quan dẫn đến toàn cầu hoá.
Sở dĩ toàn cầu hoá tiến nhanh và lan rộng nhanh như hiện nay chính cũng nhờ cuộc cách mạng thông tin, trong đó mạng lưới Internet đóng vai trò chủ động, đi vào mọi nhà, vùng sâu, vùng xa, vùng sa mạc, vùng Phi châu với thông tin, hình ảnh, báo chí, buôn bán, trao tình, trao duyên, làm bạn với nhau qua mạng lưới dẫn đến hôn nhân liên lục địa rồi chúc Tết qua hình, đọc báo qua mạng, trực tuyến (on-line) v.v. đều trở thành sự thực ảo ('réalité virtuelle’).
Trong y tế, các bệnh truyền nhiễm, bệnh cúm gà, bệnh Sars v.v. do sự di chuyển thông thoáng nên khả năng lây lan rất nhanh. Cách mạng Internet cũng có chương trình ngăn chận, cảnh báo trước nên giúp khống chế. Đó là phần mềm (sofware) EWORS từ chữ Early Warning Outbreak Recognition Sysyem nghĩa là hệ thống xác nhận bột phát cảnh báo sớm; giúp các bệnh viện trên thế giới trao đổi dữ liệu để theo dõi nguy cơ bùng nổ bệnh.
Trong lãnh vực tài chính, mọi người chỉ cần máy điện toán là có thể mua, bán cổ phần chứng khoán, các công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền từ lục địa này sang lục địa khác trong nháy mắt.
Trong lãnh vực mua, bán, người ta có thể khảo giá vé máy bay, vé xe lửa, đặt chỗ trước khách sạn, mua vé máy bay qua Internet.
Trong lãnh vực nhân sự, con người với mạng Internet có thể giao cảm qua các mạng như Facebook, tìm kiếm thông tin dễ dàng nhanh chóng qua Google, các thảo luận liên lục địa của các công ty đa quốc gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet với Webcam: người xin việc có thể được phỏng vấn ngay trên mạng, không cần bay đến chỗ phỏng vấn
3. Tiến trình của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng thực sự đã có từ lâu đời với Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ quanh bờ biển Địa Trung Hải, với con đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung Đông, Cận Đông và Trung Hoa. Việt Nam đã buôn bán với Nhật qua thành phố Hội An. Các nước Anh, Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị trưòng buôn bán. Chiến tranh nha phiến Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc phiện. Đến năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh tế rất lớn, nên nhiều nước như Mỹ chủ trương bảo hộ thương mãi. Chỉ sau đệ nhị thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng cường hợp tác thương mại trong khu vực: các nước Âu Châu bắt đầu với Cộng đồng than đá và thép (Communauté charbon et acier), sau đó tiến đến Cộng đồng Âu châu 6 xứ (Pháp, Đức, Ý và 3 nước Benelux tức Belgique, Netherlands và Luxembourg), và ngày nay, sau mấy thập niên xây dựng, nhiều nước khác đua nhau gõ cửa xin vào. Ngày nay có tiền tệ chung EURO, mọi hàng rào thuế quan giữa các nước không còn nữa, không còn các trạm biên giới kiểm soát giấy tờ. Chỉ kiểm soát giấy tờ ở trạm đến đầu tiên mà thôi. Ví dụ tới Amsterdam ở Hà Lan là trạm xuống đầu tiên ở Âu Châu, kiểm soát xong là có thể tiếp tục đi thoải mái khắp các xứ khác thuộc Liên Hiệp Âu Châu. Hàng hoá và người tự do lưu thông. Bằng cấp đại học: bác sĩ tốt nghiệp ở Pháp có thể qua Espagne hành nghề; kỷ sư ở Đức có thể qua Ý làm việc, không có chuyện tương đương bằng cấp, hành nghề v.v. Tiến trình thành lập Liên hiệp Âu châu như vậy đã phải trãi qua nhiều giai đoạn gay go, nhất là khi ta biết các nước đó đã xâu xé nhau, thù hằn nhau qua hai cuộc đại chiến. Hãy tóm tắt sơ qua 'rốt mép' (road map) họ đã trãi qua:
a.Thoạt đầu là các thoả thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự thấp hơn so với các nước không tham dự.
b. Sau đó tiến đến khu vực mậu dịch tự do (zône de libre échange, free trade area) xoá bỏ các cản trở thương mãi giữa các nước thành viên;
c.thứ đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, hài hoà giữa các nước thành viên và chính sách thương mại;
d.rồi mới đến thị trường chung (marché commun) có tự do lưu chuyển lao động và vốn giữa các nước;
e.sau đó tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu và hiến pháp Âu châu.
Ngoài Cộng đồng Âu châu, hiện nay, các xứ Phi Châu cũng có ý định tiến đến mô hình tương tự, nhưng gặp nhiều vấp váp vì lục địa Phi Châu quá nhiều chủng tộc, chia rẽ do tôn giáo, nội chiến v.v.
Các nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10 xứ Đông Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Myanmar (tức Miến Điện), Singapore. Các xứ này đang tiến dần đến chỗ giảm thuế quan để giúp hàng hoá cạnh tranh nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp...
Sau đây ta chỉ tập trung vào 3 hợp phần quan trọng của toàn cầu hoá: toàn cầu hoá kinh tế, toàn cầu hoá môi trường và toàn cầu hoá văn hoá
4. Toàn cầu hoá và kinh tế.
Nói về toàn cầu hoá về kinh tế, là phải đề cập đến thương mãi. Thương mãi là một phạm vi có nhiều tác động nhất trên sự phát triển các nước và trong khối ASEAN, có khu mậu dịch tự do, được biết dưới danh từ AFTA (Asian Free Trade Agreement). Còn Bắc Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Agreement) với mậu dịch tự do, có nghĩa là giúp các hàng hoá tự do lưu thông giữa nước này với nước kia, cắt giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan thuế v.v. Ngoài tổ chức ASEAN, còn có tổ chức hợp tác kinh tế BIMSTEC gồm 5 nước: Bangladesh, Ấn độ, Myanmar tức Miến Điện, Sri Lanka và Thái Lan cũng cam kết thiết lập thị trường chung.
Ở đây, thiết tưởng cũng nên đề cập đến luật bản quyền vì bản quyền cũng là một phần trong phát triển kinh tế. Thực vậy, nền kinh tế ngày nay là một nền kinh tế tri thức (knowledge economy): các tri thức mới, các ý tưởng mới cũng được xem là nguồn vốn quan trọng không kém các nguồn vốn tài chính. Nhận định điều này, các thành viên tổ chức WTO (World Trade Organization) tức Tổ chức Mậu dịch Quốc tế cũng dã ký vào TRIPS, viết tắt từ Trade-related aspects of intellectual property rights, có nghĩa các lãnh vực của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến mậu dịch, như vậy muốn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong thực tế, hiện tượng tước đoạt sở hữu trí tuệ xảy ra tràn lan nhất là tại các xứ nghèo với sang diã băng lậu CD, videov.v. tràn lan để bán giá rẽ; các tác quyền từ nhạc vàng, nhạc đỏ, nhạc thiếu nhi, nhạc trẻ, phim truyện, hoạt hình đều bị mất mau chóng
Phi thương bất phú. Nếu thương mãi gia tăng giữa các nước, kéo theo sự thịnh vượng chung thì toàn cầu hoá giúp giảm bớt khoảng cách giàu và nghèo, các nước kỹ nghệ phía bắc và các nước đang phát triển phía Nam.
Toàn cầu hoá về kinh tế bao hàm các khái niệm sau đây: cạnh tranh, lợi thế so sánh, thị trường, tự do mậu dịch.
a Cạnh tranh: Toàn cầu hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về chất lượng; các xí nghiệp phải có mặt hàng rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Nhưng sản phẩm sản xuất ra lại có một thị trường rộng lớn ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm đầu tàu kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực vậy, thị trường trong xứ thì nhỏ hẹp, không nhiều người tiêu thụ. Ngược lại, người tiêu thụ cũng mua sắm thoải mái vì hàng hoá nhập cảng rẽ, do mức quan thuế giảm.
Thực vậy, trưóc kia, các nước để bảo hộ sản xuất trong nước nên đánh thuế nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với các hiệp định tự do thương mãi, mọi mặt hàng đều từ từ giảm thuế xuống hết (0-5%).
Do đó, vào luồng trong sự gia nhập thương mãi quốc tế đòi hỏi phải có các sản phẩm nhiều, chất lượng tốt, giá rẽ mới cạnh tranh được với các hàng xứ khác.
Nhận xét này hàm nghĩa:
1. các nước chậm tiến phải tạo môi trường đầu tư so cho những công ty, những tập đoàn đa quốc gia tham gia đầu tư vì các nước chậm tiến thì nhân công rẽ.
2. các doanh nghiệp mọi xứ trên thế giới phải giảm chi phí và nâng hiệu suất, hoặc phải liên kết với các tập đoàn sản xuất lớn, tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi.
Nhiều xí nghiệp các nước tổ chức sản xuất linh kiện chỗ nào rẽ nhất, hiệu năng nhất:
-trong xe hơi ta lái hàng ngày, có thể động cơ sản xuất bên Nhật, bánh xe ở Mexico, ráp cuối cùng tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ 'chip' chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico, ráp cuối cùng ở Mỹ v.v.
- máy bay Airbus tuy ráp ở Toulouse nhưng cánh máy bay do Anh vẽ kiểu và chế tạo, thân máy bay do Pháp, đuôi máy bay thì Espagne, động cơ do Đức chế tạo, và bộ phận thắng và đáp họ muốn Canada sản xuất.
Như vậy, riêng Việt Nam, để vào luồng toàn cầu hoá về kinh tế, cũng phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước mới xuất cảng được. Nó đòi hỏi những công nghệ mới, kỹ năng mới, quản lý hiện đại giúp sản xuất có hiệu qủa hơn, tạo sản phẩm có chất lượng hơn với giá cả rẽ hơn, tạo điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiêu hơn. Mà hiện nay thì các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, từ đường đến súc sản, từ giấy đến ximăng đều có chi phí sản xuất cao so với các nước quanh vùng do giá biểu năng lượng, giá biểu bưu chính viễn thông, giá thuê đất đai, chi phí vận tải đều cao, rồi đến cơ sở hạ tầng tồi tệ với kẹt xe, ách tắc giao thông, đó là chưa kể đến tiêu cực phí làm tăng giá thành và các ngân hàng cho vay các xí nghiệp làm ăn kém bị quịt nợ. Đặc biệt ở Việt Nam, các xí nghiệp quốc doanh lâu nay được trợ giá, ưu đãi, độc quyền... từ nay sẽ phải lo cạnh tranh hơn, nếu không sẽ tự bị đào thải.
b.Thị trường: Toàn cầu hoá về kinh tế chỉ biết thị trường nghĩa là hai loại người: người sản xuất và người tiêu thụ (không phân biệt chủng tộc, giới tính ), chỉ biết hai chữ Cung và Cầu. Cung nhiều, cầu ít thì giá cả giảm; cung ít, cầu nhiều thì giá tăng. Và cũng chính vì Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ khổng lồ nên các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v. mới đầu tư đó nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở Thượng Hải đến các công ty điện tử, điện thoại vì thị trường càng lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie d'échelle) làm giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lờI lãi nhiều. Và khi Việt Nam gia nhập vào Asean đã có thêm thị trường khu vực và khi gia nhập WTO (Tổ chức thương mại thế giới) thì thị trường càng rộng hơn.
Các công ty chỉ biết lợi nhuận trên hết, với cổ phần, cổ phiếu bán tự do ai mua vào cũng được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ thuộc vào truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ hẽm nhờ máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, sử dụng máy vi tính để mua, bán, chuyển ngân... với Web, với e-commerce.
c. Lợi thế so sánh: Ngày nay, không thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các lợi thế so sánh, xem mình có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao?
Ví dụ: Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất điện rẽ nhất. Mexique cũng như các hải đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng ấm và đó là một lợi thế so với Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch vụ rất phát triển; riêng Việt Nam thì giá nhân công rẽ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân công như may mặc, giày dép...
Không xứ nào độc lập về kinh tế được hết vì không xứ nào có đủ nguyên liệu để sản xuất sản phẩm. Máy bay sản xuất ỏ Canada hay ở Mỹ phải có nhôm mà nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Vùng Chicoutimi tại Quebec có nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng bauxit phải lấy từ Jamaica, Haiti... Tương tự đồng dùng trong các giây điện là xuất xứ từ các mỏ bên Chili, Congo v.v. Chiều hướng toàn cầu hoá là sự phân công lao động trên bình diện quốc tế, ví dụ: sản xuất sẽ chuyển mạnh vào các nước kém phát triển, còn các nước phát triển cao sẽ sống nhờ dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng v.v. sự hội nhập càng ngày càng cao của các nền kinh tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá về kinh tế không phải luôn luôn êm đẹp như trên và không phải sự vận hành luôn luôn tuân theo cơ chế thị trường. Ví dụ: cá ba sa trước kia Việt Nam xuất cảng qua Mỹ rất nhiều; gần đây, hiệp hội nuôi một loại cá tương tự ở Mississipi Hoa Kỳ kiện lên Bộ Thương Mại là cạnh tranh bất chính, cho rằng giá cá ba sa Việt bán dưới giá thị trường nên Mỹ tăng thuế nhập cảng loại cá này 64%, nên không ai nhập cảng nữa.
Chính sách tiền tệ cũng tác động đến toàn cầu hoá về kinh tế. Hiện nay, đồng đô la Mỹ trượt giá so với đồng Euro làm các kinh tế Âu châu khó hồi phục vì xuất cảng hàng trở nên đắt.
Như vậy toàn cầu hoá bao hàm sự tương tác. Nó vừa là một cơ may, vừa là một rủi ro. Toàn cầu hoá, tự do thương mãi cũng có những hạn chế của nó. Nhiều cuộc biểu tình khi có các hội nghị thương mãi, các phiên họp G8 thường xảy ra chống chủ trương toàn cầu hoá, bao gồm nhiều dạng: nghiệp đoàn chống vì sợ công nhân các xứ tiền tiến thất nghiệp, các tổ chức môi trường chống vì sợ phá rừng nhiệt đới, cũng có các nhóm tranh đấu cho các nước thứ ba được xoá nợ, cũng có nhóm cho rằng toàn cầu hoá làm hố cách biệt giàu-nghèo tăng lên v. v.
Các vấn nạn toàn cầu hoá như sau:
-chỉ một thiểu số biết buôn bán làm ăn, móc nối mới giàu còn đa số vẫn nghèo: ở Phi Luật Tân, chỉ một thiểu số người Hoa là giàu; bên Kenya, thiểu số người Pakistan vô cùng giàu có, Sierra Leone thì thiểu số dân Liban nắm toàn quyền tài chính, Nga thì thiểu số Do Thái rất giàu, dân đen rất nghèo... (xem World On Fire của giáo sư Amy Chua, Đại học Yale). Như vậy, sự cách biệt quá đáng giàu nghèo giữa một thiểu số sắc tộc và một đa số bản xứ sẽ đưa đến hận thù và chỉ chờ một ngọn lửa nhỏ, một ngòi nổ nhỏ sẽ làm bùng nổ xã hội với khủng bố, nội chiến v.v.
-hố cách biệt giàu nghèo càng ngày càng tăng: hiện nay, 20% dân số giàu nhất toàn cầu chiếm hơn 80% thu nhập thế giới trong khi gần 3 tỷ người tức 50% dân số thế giới vẫn sống với thu nhập dưới 2 Mỹ kim mỗi ngày.
-nhiều nước chậm phát triển bị nợ nần rất nhiều của các định chế quốc tế nên phải nai lưng ra trả nợ nên không ngoi đầu lên được. Đó là trường hợp các nưóc Phi châu nam Sahara mắc nợ rất lớn các định chế ngân hàng. Họ tranh đấu để giảm nợ nần.
-nhiều doanh nghiệp các nước kỹ nghệ bị đóng cửa vì chủ nhân di chuyển cơ sở làm ăn đến các xứ nhân công rẽ hơn. Một kỹ sư điện toán của Mỹ lương hàng năm trung bình 50 nghìn đô la, một kỹ sư tương tự ở Ấn Độ chỉ 5000 đô la, do đó vì lợi nhuận, các công ty Mỹ thuê Ấn Độ làm, tạo thất nghiệp ở Mỹ.
-thương mãi không cân bằng: mỗi năm, các nước chậm phát triển phải nhập cảng phân bón, thuốc men với giá cao hơn, nhưng bán nông phẩm như gạo, như cà phê với giá rẽ hơn. Như những trận mưa rào đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là thuộc OCDE (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi năm,-xem như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông dân để họ sản xuất thực phẩm với giá phải chăng và để họ có mức sống tương đương mức sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình thức như cho vay lãi xuất rẽ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v. Nhật Bản và Đại Hàn muốn bảo vệ sản xuất gạo trong nước bằng cách đánh thuế cao trên gạo nhập cảng. Hai nước này trợ cấp cho nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo sản xuất ra trong nước thì phải trợ cấp 80 cents cho nông dân. Pháp, Mỹ, Thụy sĩ v.v. đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các nước này thặng dư lương thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng dư lúa mì, thặng dư đậu nành, bắp..., nên họ phải bán rẽ hay cho không các nước, đặc biệt là Phi châu. Nông dân Phi Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất nghiệp và kéo theo bất ổn chính trị. Các nước chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương thực cho các nước Tây phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo nhưng các vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non còn chưa đủ no. Ấn Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu dân còn bấp bênh lương thực (tạp chí Le Courrier số 197 Mars/Avril 2003). Thực vậy, vấn đề nông nghiệp chính là vấn đề gay cấn nhất trong các đàm phán tương lai, đặc biệt là ở hội nghị thương mãi họp ở Cancun (Mexico) vì lập trường khác biệt giữa các xứ:
.Các nước nghèo mà kinh tế nông nghiệp là chủ chốt lại muốn các nước tiền tiến cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan để có thể xuất cảng nông sản được: diện tích đường mía riêng ở Bresil còn lớn hơn cả diện tích Thuỵ Sĩ và giá sản xuất rất rẽ nhưng các nước Tây Âu chỉ muốn nhập cảng đường mía từ các xứ cựu thuộc địa ở miền Caraibes như Tobago & Trinidad, Barbados v.v. Bông vải xứ Mali ở Phi Châu không xuất cảng được sang các nước Âu Châu vì mua bông vải ở Mỹ rẽ hơn, vì ở Mỹ, nông dân được trợ cấp. Gạo Thái Lan không xuất cảng qua Nhật được vì nông dân Nhật cũng được trợ cấp khi sản xuát gạo. Trong hội nghị thương mãi ở Cancun năm 2003, chính nông nghiệp là đề tài gây tranh cải bất đồng nhiều nhất: các nước đang phát triển muốn các nước phương Tây không bán phá giá nông sản với giá rẽ, cạnh tranh với hàng nông nghiệp của mình .Ví dụ: Mali và BurkinaFasso sản xuất bông vải rất rẻ nhưng không cạnh tranh được với bông vải Mỹ vì bông vải Mỹ được trợ giá.
Như vậy, chính sách thương mãi trong toàn cầu hoá phải tăng cường công bằng xã hội chứ không nên làm tăng hố cách biệt giàu nghèo.
5. Toàn cầu hoá và môi trường
Phi nông bất ổn. Năm 1950, Trái Đất có 2,5 tỷ người .Ngày nay, cũng từng đó diện tích nhưng với tài nguyên suy giảm, Trái Đất phải nuôi 6 tỷ người. Và tuy tỷ lệ sinh có mòi suy giảm nhưng năm 2050, Trái Đất sẽ có giữa 7,3 và 10 tỷ người (8,9 tỷ theo phỏng đoán trung bình). Để nuôi dân đông đảo địa cầu như vậy, sản xuất lương thực phải tăng vì phi nông bất ổn. Không những phải tăng mà sản phẩm cũng phải rẽ nữa.
Cũng cùng quy luật toàn cầu hoá nghĩa là cạnh tranh, nông dân phải bón phân nhiều, xịt thuốc diệt cỏ, xịt thuốc trừ sâu sao cho sản phẩm bán dễ dàng trên thị trường, làm môi trường bị khai thác quá mức, đảo lộn hệ sinh thái với nitrat chảy vào nước ngầm, cá chết vì ô nhiễm nước, các đàn ong chết (vì hút nhụy hoa vừa bị xịt thuốc). Các loại thuốc trừ sâu nếu bón không đúng cách sẽ tiêu diệt sự điều tiết giữa các giống, trừ khử mọi côn trùng có ích lẫn hại, lắm khi tạo ra giống mới miễn dịch được các loại thuốc bảo vệ thực vật. Và chỉ chú trọng vào lợi nhuận ngay trước mắt nên hệ sinh thái bị đảo lộn, kéo theo một loạt hậu qủa về ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước dưới đất, sa mạc hoá, nạn lũ lụt, chuồi đất.
Vì lợi nhuận, và vì cái 'mốt' các nưóc tiền tiến là thích bàn ghế bằng gỗ nhiệt đới nên nhiều rừng nhiệt đới từ Gabon ở châu Phi sang Indonesia ở Đông Nam Á qua rừng già Amazon của Brésil bị đốn gỗ để xuất cảng. Không còn rừng thì dĩ nhiên không còn muông thú nữa vì rừng là nơi trú ẩn muông thú. Không còn rừng thì mất đa dạng sinh học, mất nhiều gen thực vật, mất ADN vốn là nền tảng cách mạng xanh ngày nay. Nền nông nghiệp đó, chú trọng vào lợi nhuận, tạo nên,- như Francois Garczynski đã nói-, những sa mạc theo cả nghĩa đôi của chữ này: đất đai bị xói mòn và nông dân kéo vào thành thị, tạo thêm các khu nhà ổ chuột. Nếu không được hạn chế, phá rừng sẽ làm cạn kiệt nguồn nước mặt và nước ngầm, gây nên lũ lụt v.v.
Người nông dân các nước nghèo thấp cổ bé miệng không chủ động được thị trường quốc tế trong đó các nhà chế biến, các hãng buôn nhập cảng có uy quyền thao túng hơn. Các đại công ty Nestlé, Unilever, Dole, United Food có thể có ảnh hưởng trên các nhà lập pháp nhiều hơn là nông dân lam lũ.
Nhiều vấn đề môi trường không phải chỉ nằm trong phạm vi một quốc gia mà có tính cách xuyên biên giới. Vài ví dụ:
-Sông Nil chảy từ Burundi, rồi Kenya, Soudan trước khi đến Ai cập .
-Sông Mekong chảy từ Vân Nam (Trung Quốc) qua Lào, Miến, Thái, Campuchia mới đến Việt Nam... Sông Sesan chảy từ Việt qua Miên. Việt Nam vừa là nước thượng lưu (sông Sesan, sông Srepok), vừa là nước hạ lưu. Campuchia cũng vậy. Phá rừng trên thượng nguồn, xây đập trên thượng nguồn một xứ có ảnh hưởng đến kinh tế từ ngư nghiệp đến nông nghiệp của nhiều xứ nằm trong cùng lưu vực: phù sa bớt đi, làm đất không được bồi dưỡng. Như vậy, các biến đổi thượng lưu có thể gây ra tác động lũy tích dồn về phía hệ sinh thái hạ lưu, cả về mặt lợi ích quốc gia (nước trồng lúa) lẫn nguồn sống địa phương (cá tôm, nước sinh hoạt). Những thách thức môi trường xuyên biên giới nhiều và đa dạng: do suy thoái rừng và lũ lụt do phá rừng đầu nguồn, Thái Lan cấm khai thác gỗ và một tác dụng của luật cấm khai thác gỗ của Thái Lan là chuyển nạn suy thoái rừng sang các quốc gia láng giềng Lào, Miến Điện và Campuchia. Các nước này đã tăng mức xuất cảng gỗ, cả hợp pháp và bất hợp pháp.
Do đó khu vực hoá đòi hỏi cần có các định chế điều hợp, phối trí để quản lý các thách thức môi trường xuyên biên giới, mục đích tối hậu là để cho tài nguyên được sử dụng một cách bền vững.
Như vậy, chính sách thương mãi trong toàn cầu hoá phải tăng cường sự bền vững sinh thái chứ không thể chỉ chú trọng vào lợi nhuận.
6. Toàn cầu hoá và văn hoá.
Toàn cầu hoá đem đến những mặt tích cực và tiêu cực:
-tích cực vì toàn cầu hoá đưa thông tin đến mọi nhà, thông tin khoa học, kinh tế, chính trị, và văn hoá giúp con nguời sống gần nhau hơn, hiểu biết nhau hơn và dễ thông cảm để có hoà bình nhân loại, giúp dân trí cao hơn, làm các dân tộc hiểu biết nhau hơn, đưa đến cảm thông văn hoá và giúp phá bỏ cường quyền, dù các nước này thiết lập hàng rào lửa (firewall) trên mạng lưới. Các nưóc chậm tiến có thể nhờ toàn cầu hoá về thông tin để cải thiện giáo dục, tạo ra một xã hội học hỏi (learning society), giúp dân trí phát triển nhanh hơn.
Nhưng cũng cùng cái 'logic' của kinh tế thị trường là chú trọng trên hết vào lợi nhuận nên những sách báo, video khiêu dâm, nặng về tình dục lại bán chạy hơn các sách nghiên cứu rất giá trị về lâu dài!
Toàn cầu hoá giúp ta có nhãn quan mới, tư tưởng mới, không khư khư buộc lấy mình vào trong, không còn tư tưởng 'ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn'. Toàn cầu hoá đem đến một luồng gió mới trong quản trị với sự minh bạch, trong suốt, có kế hoạch, có bài bản, trong pháp luật với sự minh bạch, không tròng tréo, trong giáo dục với sự đào tạo các ngành nghề dịch vụ và nếu giúp người Việt trong nước bớt quan liêu, bớt tham nhũng, bớt thói vòi vĩnh, thì đó cũng là điều tốt thôi.
Toàn cầu hoá đưa đến cạnh tranh và như vậy, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể, kéo theo thất nghiệp; như vậy đặt ra vấn đề tu nghiệp, đào tạo, chuyển nghề, tóm lại học hỏi liên tục để tự mình tìm được công việc khác. Mỗi xí nghiệp, mỗi học đưòng, mỗi ngành và mọi ngành cùng nhau phải nâng cao năng lực, nâng cao kiến thức, trở nên năng động vì thụ động, đứng yên có nghĩa là tụt hậu, thụt lùi.
Với toàn cầu hoá, các hôn nhân xuyên biên giới, xuyên quốc gia trở nên thường xuyên hơn. Gia đình Việt Nam ở Mỹ hay Canada có con cái có chồng hay vợ người bản xứ là rất thường.Với các hôn nhân toàn cầu hoá như trên, nhiều giá trị cổ truyền Đông phương cũng phai lạt đi: nhiều quan hệ vợ chồng trở nên bình đẳng, văn hoá trở nên cá nhân hơn, không còn các rắc rối trong quan hệ mẹ chồng-nàng dâu, chị em dâu như trong các gia đình truyền thống ngày xưa nhưng ngược lại thì bớt tinh thần đoàn kết trong gia đình so với ngày trước.
-tiêu cực vì đem lại một sự đồng dạng văn hoá: văn hoá tiêu thụ, văn hoá vật chất, văn hoá Mac (Mac Donald), văn hoá cá nhân, chú trọng bề ngoài mà không chú trọng bề sâu của tâm hồn.. Bản sắc dân tộc bị xói mòn, đe dọa với phim ảnh Tây phương tràn ngập.
Các tội ác xuyên biên giới như rửa bạc, kinh doanh phụ nữ, buôn bán ma túy, vũ khí cũng dễ tăng lên. Lấy ví dụ các đường dây buôn bán phụ nữ từ Miến Điện qua Thái Lan, từ Việt Nam qua Kampuchia hoặc qua Tàu
7. Toàn cầu hoá và y tế.
VớI toàn cầu hoá, sự đi lại giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn nên sự lây lan các bệnh cũng nhanh hơn: các hội chứng viêm hô hấp cấp tính nặng, tức SARS (severe acute respiratory syndrome), bệnh cúm, bệnh SIDA càng lan truyền nhanh hơn.
Với quyền sở hữu trí tuệ quy định trong Tổ chức Thương mại thế giới, bảo vệ cho các phát minh mới, nhiều nước đang phát triển càng gặp khó khăn trong sản xuất hay nhập cảng các thuốc đặc trị vì quá đắt.
Khi nói đến toàn cầu hoá, là nói ngay đến bãi bỏ các sắc thuế, nhất là thuế nhập cảng, làm ngân sách quốc gia bị sụt giảm qua thuế, do đó ngân sách dành cho y tế cũng như giáo dục bị hạn chế.
.
8. Thế nào là 5 LESS cần tránh trong toàn cầu hoá?
Ruthless: Hiện nay, hố cách biệt giàu/nghèo giữa các nước phát triển và các nước chậm tiến qúa sâu đậm. Hố cách biệt người cùng một nước, nhiều người qúa giàu, nhiều kẻ qúa nghèo. Do đó cần có phát triển hài hoà sao cho các thành tựu phát triển kinh tế cũng phải được phân phối đồng đều: quyền được săn sóc khi bệnh tật, trẻ thơ như người già yếu được chăm sóc bảo vệ, được giáo dục. Do đó, phải dùng tiền hưởng lợi từ tiến trình toàn cầu hoá để tái đầu tư vào nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển khoa học, tạo việc làm, bảo trợ an sinh xã hội, mục đích là giảm hố cách biệt giàu- nghèo, nông thôn-thành thị.
Rootless:Phát triển nhưng phải giữ căn tính, bản sắc văn hoá các dân tộc. Một nhà thơ Nga tên Gamzatov có nói đâu đó rằng: 'Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác'. Do đó, phải biết gạn đục khơi trong, tìm lại những giá trị truyền thống trong văn hoá như hiếu thảo, hoà đồng, trọng thầy, yêu chuộng bề dày của lịch sử văn hoá ông cha để lại.
Jobless: Phát triển nhưng tạo công ăn việc làm, chứ không phải phát triển với các dự án không tạo thêm công việc. Điều này cũng hàm nghĩa giáo dục liên tục để đào tạo nhân công thích nghi với sự thay đổi mau lẹ của thị trường quốc tế; ngoài ra phải giảm bớt khoảng cách gây ra từ cách biệt trong trình độ công nghệ thông tin (digital divide).
Futureless: phát triển nhưng phải lo bảo toàn môi trường vì chính môi trường như đất, nước, rừng phải được sử dụng trong đường lối phát triển bền vững để cho các thế hệ sau này còn được hưởng dụng. Phải mong rằng thị trường không phải là tất cả và không thể để tiêu chuẩn lợi nhuận tối da trên tiền đầu tư mà phá hủy môi trường, lấn chiếm những gì cho các thế hệ mai sau, tóm lại phát triển với bộ mặt con người.
Voiceless: phát triển nhưng trong sự trong sáng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng khiến người dân nào cũng có thể nói mà không sợ bị bắt bớ, giam cầm.
9. Kết luận
Nền kinh tế thế kỷ 21 này là một nền kinh tế xu hướng càng ngày càng khu vực hoá, toàn cầu hoá với đổi trao, thay vì khai thác và lấn chiếm như xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi một tinh thần liên đới và trách nhiệm:
-liên đới giữa các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các nước kém mở mang với mục đích là để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi cùng cực triền miên. Trong một nước,
sự tăng trưởng kinh tế do toàn cầu hoá mang lại phải được chia xẻ cho tất cả mọI ngườI chứ không phải chỉ một bộ phận xã hội. Sự phát triển kinh tế phải có tính cách bền vững, không phát triển trên nợ nần của các thế hệ tương lai.
-trách nhiệm vì toàn cầu hoá có thể giúp các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh hơn, các tổ chức mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng bố do đó mọi xứ có trách nhiệm hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa TRƯỚC KHI tội phạm xảy ra. Một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần có những thể chế, quy tác, luật pháp, trong đó có việc tăng cường kiểm soát các ngân hàng bằng giám sát chặt chẽ hơn.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng đồng nhân loại cũng chìm luôn. Con người như vậy phải tập sống bao dung, bao dung với tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín ngưỡng nhưng trong một khung cảnh luật pháp ở đó quyền ăn nói, quyền làm người phải được tôn trọng. Quyền hành dù là chính trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải đi đôi với trách nhiệm. Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên là quan trọng nhưng còn có các giá trị tâm linh không thể mua hay đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con nguời không thể đo bằng bit hay byte mà sự quán chiếu nội tâm để hiểu được bản thân mình có thể còn quan trọng hơn là biết mọi chuyện trên thế giới trong chớp mắt nhờ Internet. Các đền đài, các di tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ quát không thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm mỹ, huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng mạn chứ không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như lăng miếu, đền đài có linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés, avez-vous donc une âme ?..). Các giá trị văn hoá phức tạp hơn là các giá trị tài chính. Không thể xem cái gì cũng là mặt hàng đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là một ví dụ; khủng bố World Trade Center cũng là một ví dụ khác. Từ vụ 911 này, du lịch sút kém khiến máy bay không ai đi, nhà hàng không ai đến, do đó nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay không ai đi nên các hãng sản xuất máy bay phải sa thải nhân viên v.v. Như vậy các vấn nạn không những liên hệ với nhau mà lại có sự gia tăng những yếu tố bất định không đoán trước được, chúng phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián đoạn, những hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng trưởng các vũ khí nguyên tử tại các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn v.v.
Nhưng vấn đề cốt lõi lại chính lại là một vấn đề văn hoá: làm sao cho thế giới không phải là một sân chơi cho các cầu thủ hạng nặng (các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa dạng trong đó mọi dân tộc tham dự chia xẻ các khổ đau, các an lạc, các thành qủa, tạo ra một hiền hoà giữa người và người, một hài hoà giữa người và thiên nhiên, nghĩa là tạo một nền kinh tế có bộ mặt con nguời, trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất) trong giải Thiên Hà bao la.