Tưởng nhớ công trình một bác sĩ y khoa, đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1988 phát triễn ra thuốc tây chữa tim, và thuốc lỡ loét bao tử , vẫn còn bán chạy :
G S Tôn Thất Trình
Bác sĩ James Black , nhà đoạt giải Nobel gốc xứ Tô Cách Lan - Scotland , nhà tiền phong họa kiểu dựa trên lý trí những loại thuốc tây và đúng theo tiến trình này, phát triễn ra đầu tiên những loại thuốc sử dụng rộng rải chửa trị bệnh tim và chận đứng dạ dày sản xuất acid ( chất chua ) , đã qua đời ngày 22 tháng 3 năm 2010. Ông hưởng 85 năm tuổi đời. Đại học Dundee đã xác nhận tin này, nhưng không cho biết nơi và lý do ông thất lộc.
Black phát triễn propanolol
Thuốc không đem lại cho Black lợi lộc tài chánh gì lớn . Nhưng ngoài giải Nobel , giúp ông chiếm đoạt tước Hiệp Sĩ - knighthood và phần thưởng Bội tinh Công Đức - Order of Merit, danh dự lớn nhất một quốc vương Anh có thể ban thưởng. Bội tinh Công Đức chỉ cấp một lúc nào đó cho 24 nhân vật còn sống. Black là người Tô Cách Lan đầu tiên nhận danh dự này
Khi Black khởi sự công trình khảo cứu vào thập niên 1950, phát triễn thuốc tây mới ở giai đoạn đề nghị hú họa ( được chăng hay chớ ) mà thôi. Đa số thuốc tây tách ra từ thực vật - cây cỏ được xem là có y dược tính hay bằng cách sửa đổi các dược phẩm hiện hửu và đem các hợp chất này ra những chương trình sàng lọc đại trà .
Công trình của Black căn cứ trên cảm hứng của nhà khoa học Hoa Kỳ Raymond Ahlqvist , năm 1948 , khám phá ra rằng co hay giản mô cơ bắp ( bắp thịt ), kể cả cơ bắp trái tim, đều được điều hòa bằng những chất nhận - receptors riêng biệt, Ahlqvist gọi là alpha và bêta.
Các thuốc chửa tim thời kỳ đó được xem là tăng thêm cung cấp oxygen cho tim . Black lý luận rằng rất có thể giảm bớt yêu cầu oxygen cho tim, bằng cách chận đứng các chất nhận bêta, giúp cho tim khỏi phải hoạt động vất vã. Làm mô hình những thuốc tiềm thế đúng theo các hóa chất dược biết là kết dính - bind với chất nhận beta, năm 1962, nhóm Black phát triễn một thuốc tây tên là pronethalol, làm tim thư giản. Nhưng những thử nghiệm cho thấy thỉnh thoảng thuốc này có nhiều dị ứng - side effects, cho nên phải loại bỏ đi.
Hai năm sau, nhóm phát triễn propanolol, hoàn tất mục tiêu của Black. Thử nghiệm lâm sàng trình bày là thuốc ích lợi chửa trị chứng đau thắt ngực - angina pectoris , chứng tim đập nhanh - tachycardia và chứng loạn nhanh nhịp tim - tachyarrhythmia . Thuốc cũng còn hửu hiệu chửa trị cao huyết áp và giảm chết chóc vì đứng tim - heart attack .
Sau đó Black chuyễn qua nghiên cứu histamines, đóng một vai trò ở hệ thống miễn nhiễm và điều hòa hoạt động sinh lý dạ dày. Nhũng loại kháng antihictamines đang thịnh hành, chỉ thành công bán phần. Black lý luận, tương tự các mô cơ bắp, là thật sự có hai chất nhận histamine, ông mệnh danh là H1 và H2 . Những loại histamines đang có , chỉ ảnh hưởng đến chất nhận thứ nhất.
Theo cùng phương pháp ông đã dùng cho propanolol, nhóm Black bắt đầu tìm kiếm những thuốc có thể chận đứng chất nhận H 2 . Thuốc đầu tiên họ tìm ra là metiamide, hoạt động tốt, nhưng cũng như pronethalol , sản xuất nhiều dị ứng không thể nào chấp thuận được. Năm 1975 , họ khám phá ra cimetidine, có ảnh hưởng lớn đến ung nhọt ( loét ) ulcer peptic và rất ít dị ứng.
Tagamet thành công rực rở , trở thành thuốc đầu tiên bán ra hơn 1 tỉ đô la Mỹ mỗi năm.
Năm 1988, Black chia sẽ Giải Nobel Sinh lý và Y khoa cùng các nhà khảo cứu Hoa Kỳ là Gertrude Elion và Goerge Hitchings , đã dùng những phương pháp nhắm mục tiêu tương tự hầu phát triễn thuốc chửa trị ung thư.
James Black sinh ngày 14 tháng 6 năm 1924 ở Uddington , ngoại ô thành phố Glasglow, theo lời ông nói là “ một cậu bé vùng than đá Fife”. Cậu bé thông minh tài ba điển hình này, không được ai khích lệ, đeo đuổi học vấn ở một ngôi nhà lụp xụp phải dùng cột kèo chống đở cho khỏi phải rơi rụng xuống hầm mỏ than. Một thầy giáo thuyết phục ông khi ông lên 15 tuổi, đi thi vào Viện đại học St Andrew University. Ông được cấp học bổng theo học đại học danh tiếng này, ông lựa chọn y khoa vì ông bị các sách giáo khoa anh ông William đã tốt nghiệp đại học này, thu hút mạnh .
Nằm 1944 ở một buổi khiêu vũ cho ban cử nhân, ông gặp bà vợ tương lai là Hillary Vaughan. Sau khi tốt nghiệp, họ lấy nhau năm 1946 và sống với nhau cho đến khi bà vợ mất năm 1986. Khi Hillaty tốt nghiệp cử nhân sinh hóa học năm 1947, hai vợ chồng nợ nần nhiều và ông không kiếm ra việc làm ở Vương quốc Ạnh . Cho nên ông đã phải nhận một chức vụ ở đại học y khoa King Edward VII tại Singapore .Ba năm sau, 2 vợ chồng trở về London “ không có nhà cửa, không có lợi tức và không có tương lai gì cả “ . May mắn là ông gặp lại một giáo sư cũ, dẫn ông tới trường Thú Y, viện đại học Glasglow , nơi đây ông đã lập ra Khoa Sinh lý học. Tám năm ở đại học này, theo lời ông , ông đã học hỏi thêm cách nào thành nột nhà thí nghiệm .
Khi đã công thức hóa ý kiến ông về các chất nhận bêta, ông tới gặp hảng Imperial Chemical Industries ICI, mong được tài trợ. Thay vì tài trợ, hảng gợi ý mời ông gia nhập các la bô của hảng. Ông chấp nhận và khám phá ra Inderal đã làm cho hảng ICI trở thành một chánh nhân ngành công nghệ dược phẩm.
Lo sợ rằng ông sẽ bị hút dẫn vào các hoạt động đề xướng doanh vụ cho Inderal , thay vì khả năng phát triễn các ý kiến về histamines, ông rời bỏ ICI năm 1964, gia nhập la bô hảng Smith , Kline & French ; nơi đây ông được tự do tha hồ theo đuổi các ý kiến mình và nơi đây ông đã phát triễn cimetidine .
Khao khát trở về giáo dục , ông gia nhập viện University College London, năm 1973 , rồi Welcome Foundation năm 1978. Năm 1984, ông trở về University College London , rồi trở thành viện trưởng Viện University of Dundee năm 1992.
. Bà vợ thứ hai Rona Mackie , lấy nhau năm 1994 , vẫn còn sống, cũng như con gái ông là Stephanie.