TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Trái Gồi - Synsepatum dulcifera
 
Lên mạng ngày 2/10/2009

 Xin đừng  lãng quên nghiên cứu phát triễn  cây trái gồi kỳ diệu gôji- cẩu kỷ, tông Lycium ỏ Việt Nam mà thị trường thế giới, ước lượng năm  2011, sè đạt nhiều tỉ đô la Hoa Kỳ  .
G S Tôn Thất Trình
           
             Những trái cây làm ngọt che mất vị chua và những trái cây bổ dưỡng, sinh cường, làm thuốc…
       
             Trái gồi đỏ kỳ diệu gôji , không phải là trái kỳ diêu - miracle fruit Synsepalum   dulcifera , cách đây 5 năm hầu như không mấy ai biết , nhưng nay tuồng như có mặt khắp nơi , trong chén rượu martini, bánh cốm granolas , các bổ sung   dinh dưỡng và làm da mặt nâu đà hơn cho cô tài tử mới lên Lindsay Lohan . Trái gôji được quảng cáo rầm rộ như một siêu trái- super fruit, đúng thời trang sang trọng và đắt tiền, chỉ mới bán ra ở Hoa Kỳ dưới thể dạng biến chế , nước cốt - juice nhập khẩu , bột hay trái khô; còn trái tươi các kẻ say mê ưa chuộng thì chưa mua được ở Hoa Kỳ.
            Tìng trạng này đang thay đổi , vì ở một buổi trưa nóng bỏng tháng 7 năm 2009 ở nông trại phía tây thị trấn Fresno - Ca Li ( nơi có nhiều người  tộc dân Hmong - Mèo , Miêu nguồn gốc Viêt Nam và Lào - Xiêng Khoẳng sinh sống trồng rau dưa ), trại chủ Richard Burkart nhăn mặt khi ông hái trên một hàng bụi rậm xương xẩu xanh lợt một nắm trái đỏ cam gôji và bóp ăn . Những trái gồi này mùi vị hơi ngọt ngọt, thoáng mùi cà chua tô mát pha lẫn   mùi ớt bộp hồng hay đỏ. Burkart thích thú và nói về trái gôji tươi trong bao plastic vỏ sò sẽ đem bán ở chợ trời nông dân   giá 8- 10 đô là hay hơn nữa .        
 Thế nhưng 2 tuần sau đó , đa số lùm bụi gôji đêu trơ trọi. Burkart cho biết là chim đã ăn  hết trái và các bụi gôji năm nay không trổ bông nhiều như thường lệ.
            Chúng tôi đã mô tả bốn “ siêu trái mới “   (  bài  viết ngày 3 tháng4 năm 2008 là cây trái nhàu nô ni Morinda citrifolia tuyễn chọn nhiều ở Hạ uy Di,  cây axai Enterpe olearacea, cây gôji Lycium barbatum, và cây lựu  giống tuyễn chọn mới trái lớn vùng Texas; và giới thiệu 3 loài trái ( bài viết ngày 17 tháng 8 2008) có khả năng che dấu vị trái chua thành vị trái ngọt  hay tăng cường vị ngọt - sweet enhancer,  nên phát triễn ở các vùng cao, vùng thấp nước nhà. Một loài tên là Cồ Nốc lá rộng Curculo latifolia , mọc ở Kontum , tuy nguồn gốc Mã lai, ngọt 100 lần hơn đường cát nhờ hoạt chất curculin.Hai loài kia chưa trồng ở Việt Nam là trái kỳ diệu - miracle fruit đã thử nghiệm từ 50 năm nay ỏ bang Florida, tên khoa học là Synsepalum( hay Richardella ) dulcifera , nhờ chất miraculin che dấu vị chua biến mọi thức ăn chua lè ở miêng thành vị ngọt lịm. Trái kỳ diệu thích hợp cho vùng đồi núi cao nước ta, vì chịu lạnh đông giá được . Cây thứ hai nguồn gốc Phi Châu, lại có độ ngọt 3000 lần hơn đường cát ( hơn cỏ ngọt Stevia hiện đã phổ biến khá nhiều ) là Katempe , chứa chất tăng cường vị ngọt thaumatin .
            Đặc biệt  là hai loài trái cây làm bổ sung dinh dưỡng , sinh cường, theo quảng cáo các công ty Hoa Kỳ nhập khẩu, còn có hứa hẹn làm thuốc chống trả ung thư, tăng cường hệ thống miễn nhiễm, kéo dài thêm tuổi thọ, ngoài những lợi ích khác,   như chứa nhiều sinh tố C , carotene B ….Thứ nhất là cây axai họ cau- dừa Arecaceae , loài Enterpe olearacea mọc hoang dại dọc các bờ đầm lầy Amazonia - Brazil , như thể cây dừa nước Nipa frutescens nước ta vậy đó Trái mọc từng chùm 700- 800 màu tím đậm , hột chiếm 80% trái . Ở bài phát triễn Trà Vinh, chúng tôi đã lưu ý nên phát triễn cây axai dọc các kênh rạch ven bờ rừng sát , rừng tràm…. đất phèn , đất măn đồng bằng sông Cửu Long. Thứ hai là cây gồi gôji, chủ đề bai này
        
Biết qua về các giống loài cây trái gôji trên thế giới
        
Đây là một loài trái cây thuộc Bắc Bán Cầu, trổ bông từ tháng 6 đến tháng 9 và trái  chín từ tháng 8 đến tháng 10 , tùy theo vĩ tuyến , cao độ và khí hậu. Các loài gôji sản xuất trái màu đỏ cam sáng chói, hình soan bầu dục, dài 1-2 cm.  Số hột trong mỗi trái thay đổi tùy giống, loài  và kích thước trái, thường từ 10 đến 60 hột nhỏ tí xíu màu vàng ép lại quanh phôi cong vèo .
              Cây gôji tên Anh là “ Gồi chó Sói- Wolfberry “ trong khi tên Tàu là guoqi, theo hán việt là cẩu - chó kỷ mà Anh dịch trẹo đi thành cho sói. . Ở Trung Quốc vùng hồi giáo uyghur Tân cương và huyện tự trị  Ninh Hạ - Ningxia  tỉnh Nội Mông, trái gôji có tên là gouqizi , zi có nghĩa là trái hay trái gồi - berries. Nhưng tên của gouqi khác là Duke of Argyll‘s Tea Tree   hay Matrimony vine. Đôi khi ở sách dược liệu có tên là Lycii fructus , tên la tinh của trái lycium. Lycium là tên vùng Lycia, Anatolia-Thỗ nhĩ Kỳ. Và Lycium chinense được  nhà thực vật học Tô Cách Lan - Scottish Pjilip Miller, mô tả thực vật đầu tiên  trong cuốn Tự Điền Nhà Vườn, xuất bản năm 1768. Dân Tây Tạng gọi cây trái này là dretsherma, dre là con ma và tsherma có nghĩa là gai - thorn, tên trái là dretshermadravu , dravu có nghĩa là trái ( quả ) . Tây Tạng phổ thông gồi gôji dưới hai dạng là gôji Tây tạng - Tibetian gôjigôji Hi mã lạp sơn - Himalayan gôji và cho biết là Tây Tạng phân biệt 41 giống trồng trong xứ . Nhưng các nhà thực vật Trung Quốc cho răng gôji Tây Tạng thật sự nhập từ Tân Cương và Ninh Hạ.   Việt Nam gọi những trá gồi này là”  kỷ tử”, “cẩu kỷ” , “cẩu kỷ tử” , nhưng gọi lá ăn được là “ củ khởi “. Thái Lan gọi cây là gao gèe . Ở Nhật cây gôji có tên là Kuko , trái là kuko no mi hay kuko no kajitsu . Ở Triều Tiên - Nam Bắc Hàn , trái gôji tên là gugija .
           
Trung Quốc là quốc gia duy nhất hiện nay có vườn trồng gôji thương mãi đại trà
          
 Đa số vườn gôji thương mãi sản xuất từ Ningxia- Ninh Hạ Hui vùng tự trị ở Trung Bắc Trung Quốc và vùng Tân Cương-Xinjiang , vùng tự trị tộc dân hồi gíáo Uyghur miền Tây Trung Quốc , trồng thành vườn đại trà , đồn điền khá lớn.  Ở huyện Zhongning, Ninh Hạ, diện tích đồn điền điển hình từ 45 đến 450 ha ( 500- 6000 mu ). Năm 2005 , Ninh Hạ đã có trên 10 triệu mu trồng gôji. Gôji Ninh Hạ trồng trên các tầng bặc đất phì nhiêu đồng bằng Sông Hoàng ( Hà )- Yellow River đã hơn 600 năm nay . ; nổi tiếng khắp Á Châu về phẩm giá cao , thường mệnh danh là “ kim cương đỏ - red diamonds “. Năm 2001, Ninh Hạ sản xuất 13 triệu kg , chiếm 42% tổng sản xuất gôji ở Trung Quốc, ước lượng khoảng 33 triệu kg - 72 triệu cân Anh , cũng vào năm 2001 .. Những vùng Trung Quốc khác sản xuất gôji thương mãi là Nội Mông, Thanh Hải - Qinhhai , Cam Túc - Gansu , Thiểm Tây - Shaanxi, Sơn Tây- Shanxi và Hà Bắc - Hebei .
Trung Quốc là nước cung cấp chính các sản phẩm gôji cho thế giới. Mức xuất khẩu năm 2004 là 120 triệu đô la Mỹ, từ sản xuất của 82 000 ha vườn gôji toàn quốc. Mức sản xuất tổng cọng  ở Trung Quốc là 95 000 tấn, 3 lần hơn mức sản xuất năm 2001 . 
           
Đinh danh cây gồi gôji
             
Trên thế giới, cây gôji thuộc họ cà - solanaceae họ thực vật gồm khoai lang,  khoai tây , cà chua, cà dái dê , ớt , thuốc lá v.v…  cà độc dược, một loài hoa cảnh, ăn chết người, và hoa dã yên - petunia một loài hoa bồn cảnh phổ biến vài năm nay ở nước nhà.  Tên quốc tế thường dùng ở thương mãi là “ gồi chó sói - wolfberry “, nhưng xin đừng lầm với “cây gồi tuyết miền Tây - western snowberry” tên khoa học là Symphoricarpos occidentalis , cũng hay gọi lẫn lộn là wolfberry . Wolfberry cũng được biết dưới tên là Chinese wolfberry, mede berry , barbary matrimony vine , bocksdorn , Dude of Argyll‘s tea tree, Murali ( ở Ấn Độ ), red medlar   hay matrimony vine. Các loài phân biệt ra là Lycium barbarum L. , Lycium chinense Mill. , Lycium halimifolium Mill.  ( đồng nghĩa với L. barbarum ), Lycium ovatum Loisel . ( đồng nghĩa với L. chinense Mill. var. chinense ) , Lycium turbinatum Veill. Or Loisel ( đồng nghĩa với L. barbarum ) và Lycium vulgare Dunal ( đồng nghĩa với L. barbarum ) .
Ỏ Việt Nam , GS Phạm Hoàng Hộ 5 loài tông Lycium, 2 loài trồng trọt ở nước nhà; 1 loài du nhập ở Thảo Cầm Viên( ? ) nhưng chưa phổ biến đem trồng là Lycium barbarum L. , tên Anh là Chinese Box Thorn hay Duke of Argyll s tea tree; và hai loài hoang dại (? ), một tiểu mộc ở Sơn La là Lycium laevis ( Dun & Poir ) Bitt. Và một loài chỉ mới ghi danh Lycium cochinchinensis Lour. , chưa mô tả gì cả.     
 Loài cẩu kỷ tên Anh cũng  là Chinese Box Thorn , tên khoa học là Lycium  ruthenicum Mill. , một tiểu mộc nhỏ cao chừng 1-1.5m , nhành có gai , trái ( quả ) tròn màu đỏ , ở miền cao Bắc Việt ( ? ) dùng là nấu canh mát , bổ dưỡng và bổ thận. Loài trồng trọt thứ hai ở nước nhà theo G S Phạm Hoàng Hộ là Lycium chinense Mill. tên Anh là Chinese Matrimony Vine. Tên Viêt là là Cẩu khởi hay Địa Cốt, một tiểu mộc nhỏ cao 1.5m  nhánh có ít gai ngay. Trái dài đến 2cm , màu đỏ sậm hay cam , hột nhiều to 2-2.5mm, hình thân. . Trái có tên là Khởi tử hay Kỷ tử , bổ dưỡng, trị đổ mồ hôi , tiểu đường , bệnh phổi, khích lệ hệ thống miên nhiễm , trị suyễn , tê thấp.  
Các nhà thực vật học Âu Châu , Hoa Kỳ cho rằng tiểu mộc nhỏ gồi gôji trồng ở miền Nam Trung Quốc thuộc loài Lycium chinense và tiểu mộc cao hơn trồng ở Ninh Hạ miền Bắc Trung Quốc thuộc loài Lycium barbatum.
Tất cả mọi loài đều là tiểu mộc rụng lá mùa đông - deciduous , như các loại hồng trái-- kaki, persimmons hay nhiều loại sung ngọt- ficus carica vậy đó. Cho nên những vùng cao nào ở Việt Nam trồng hồng trái kaki được là nên thử nghiệm trồng gồi chó sói , gồi gôji. Lẽ dĩ nhiên là trước tiên tuyễn choọn các giống L. chinense miền Nam Trung quôc hay miền Thượng Du Bắc Việt ít cần đòi hỏi lạnh nhiều như các giống gôji Ninh Hạ hay Tây Tạng , Hi mã Lạp Sơn , Tân Cương . Tuy nhiên năm nay hình như ngoài giống Ningqi số 1   ( tuyễn chọn từ các giống barbatum Ninh Ha. ) bán dưới tên là Crimson DStar đã có một sống giống gôji mới tuyễn chọn ở Bắc Ca li ít yêu cầu lạnh hơn, neên lưu ý du nhập thư nghiệm ơ nước ta. ( lưu ý là du nhập cành - cuttings về nhân giống mới giữ giống nguyên thủy , du nhập trái- hột dem gioo sẽ ra đủ giống loạn xạ ) Việt Nam trồng gôji có ưu điểm là vì đây là loại cây trái không cơ giới hóa thu hoạch được , cần đất pha cát ảm ưót, cần đêm lạnh ngày nóng ( như các vùng cao mùa lạnh ),  biết bao lồng tránh chim ăn hết trái chín , chưa sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu , dịch bệnh như đang xảy ra ở Trung Quốc, sản phẩm chứa nhiều dư bả độc hại . Hy vọng là trong tương lai , Việt Nam vói sự cộng tác các cơ sở dược lý, dược phòng tân tiến các trường đại học y khoa , dược khoa sẽ phát triễn được các giống gồi Goji cao năng cao phẩm ( dược lý  bảo đảm ) chiếm một phần nào thị trường hàng tỉ đô la của gồi gôji sắp tới, như đã thành công ở tiêu , hột điều v.v…   Muốn biết thêm chi tiết về  dược lý , chất bổ dưỡng v.v… của gồi goji xin tra cứu Wolfberry của Wikipedia , the free encyclopedia - Google .
( Irvine, Nam Ca Li , ngày 1 tháng 10 năm 2009 )  
   

Trở lại Trang Khoa học
 
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 855205 visitors (2217938 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free