TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Cứu sống biển Đông biển Tây
 
Lên mạng ngày 8/5/2011

   Viet Nam áp dụng và thích ứng bao nhiêu phần về:
7 cách   cứu sống biển, đại dương ( Biển Đông, Biển Tây Việt Nam ) ?
G S Tôn Thất Trình
 
              
            Các đại dương đang bị rắc rối, trử lượng cá mất hết 90 %. San hô chết hết một phần ba. Hàng trăm vết biển chết lấm tấm khắp tòan cầu. Tuy nhiên giữa các thực tế buồn thảm này,  có nhiều lý do để hy vọng: những giải pháp lý lẽ thông thường, và những thiết kế tham vọng có thể cứu sống đại dương, kèm theo cứu sống luôn cả nhân lọai nữa đó.
 
1-      Hãy ngưng đổ thêm chất độc hại vào đại dương.
 
 
             Ô nhiễm gồm nhiều dạng,  như hàng triệu ga lông ( 4 lít ) dầu chảy tràn từ các xa lộ mỗi năm đến những nơi Đổ rác thái Bình Dương, đầy xoắn ốc khối lượng lớn nổi bềnh bồng phế thải chất nhựa dẻo- plastic. Nhưng ô nhiễm tai hại nhất cho biển Hoa Kỳ là   do chất đạm - nitrogenchất lân - phosphorus nguồn gốc phân bón hóa học và ống cống phế thải. Nặng nhất cho bờ biển Việt Nam là phế thải ống cống ra từ các sông Sài Gòn và sông Thị Vải… Khi quá nhiều phế   thải của hai nguồn này xuôi dòng ra biển, thì nước bờ biển bị tảo được bón qua nhiều làm nghẹt cứng, rồi tảo chết và phân hóa tiêu thụ hết oxygen - dưỡng khí trong nước và làm ngột thở mọi đời sống động vật. Tiến trình này có tên là “dinh dưỡng quá độ - eutrophication” đã làm chết ngắt ít nhất là 405 “ vùng chết - dead zones” khắp thế giới . Phế thải của người là nguồn đứng hạng nhất thế giới các nước chậm tiến , đang mở mang . Nhưng ở Hoa Kỳ, Âu Châu và Trung Quốc , phế thải động vật và phân bón là thủ phạm chánh. Mỗi năm, riêng ở Hoa Kỳ, 10 tỉ gà nuôi 60 triệu bò sửa và 149 triệu heo  sản xuất ra 500 triệu tấn phân chuồng ,đa số phân chuồng được rải bón đồng ruộng. Nông dân Hoa Kỳ rải thêm 55 triệu tấn phân bón tổng hợp trên hoa màu mình trồng trọt; phần lớn các chất này chảy lại vào lưu vực. Thành quả: vùng chết lớn nhất địa cầu trải rộng ra từ cửa sông Mississipi. Mùa hè , khi chảy tràn nông nghiệp miền Trung Tây Hoa Kỳ đạt đỉnh cao nhất, vùng chết có thể lớn như diện tích toàn thể bang New Jersey. May thay “ dinh dưỡng qúa độ” có thể đảo ngược chiều. Chẳng hạn, thập niên 1980, Hắc Hải ( Black Sea , Mer Noire ) chứa đựng vùng chết lớn nhất hành tinh. Nhưng khi Nga Sô sụp đổ, nông dân vùng này không còn mua được  phân bón tổng hợp nữa ; cho nên đến năm 1996, vùng chết này đã hòan tòan biến mất.
         Thành quả tương tự cũng có thể thực hiện mà không làm xã hội điêu tàn.   Làm sạch nước cải thiện, và giới hạn, ngăn cấm lớn hơn về xử lý phân chuồng là một biện pháp giúp đở được điều này. Nhưng biện pháp tốt nhất là đơn giản lọai bỏ cày xới đất   . Trong hơn hai thập kỷ rưỡi vừa qua, nông dân Hoa Kỳ đã áp dụng các phương pháp “  không cày cuốc - no till” trên 36 % đất đai trồng hoa màu. Họ đã để gốc rạ và cơ cấu rễ của mùa trước tại chỗ , gieo trồng hột giống mới dùng máy gieo cận đại - modern seed drills và đặt phân bón ngay gần mặt đất nhờ bộ phận tiêm phân - injectors .  Làm như vậy họ giảm mất phân lân chảy tràn đi khỏang 40%, mất phân đạm nitrogen bốc lên không khí chừng phân nữa và bớt tổng số xói mòn gần 98 % , mà vẫn giữ nguyên vẹn năng xuất và chỉ sử dụng phân nữa năng lượng.
 Thế nhưng theo David R. Montgomery, tách giả sách : “ Đồ bẩn: Xói mòn các Văn minh - Dirt : The Erosion of Civilizations” Tuy vậy hiện nay chỉ có 5% đất nông trang   thế giới họat động theo phương pháp không cày cuốc - no till methods. Những gì xảy ra trên 95% đất nông trang còn lại, sẽ làm hình dạng tiến trình văn minh đó ?
 
2-      Hãy đánh thêm giá cả trên Carbon
 
              Trong hai thế kỹ qua, theo một bước tiến chưa hề thấy ở ghi chép địa chất. Hóa học các đại dương đã thay đổi. Mức pH đại dương trụt từ 8.2  từ năm 1885 xuống   mức acid hơn là 8.0 vào năm 1985; đến năm 2085, con số có thể chỉ còn 7.8 . Nước biển trở nên 30 % acid hơn. Nước chưa làm cháy da người, nhưng đã bắt đầu hòa tan vỏ và bộ xương ngòai - exoskeletons của nhiều   sinh vật biển có ảnh hưởng tiềm thế rất tai họa cho tòan thể hệ thống  sinh học biển.
            Chẳng hạn , những năm gần đây, vỏ các động vật chân cánh - pteropods , những con sên biển biết bơi - swimming sea snails , làm neo cho dây chuyền thực phẩm đại dương   đã khởi sự trở nên mỏng thín hơn. Trong nước biển acid hơn tương lai gần, những thí nghiệm trong thùng cho thấy vỏ chúng sẽ bắt đầu biến mất hẳn đi, khiến chúng cuộn ở bờ rìa như thể trên bờ rìa đèn sáp nóng chảy. Trong khi đó, ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương nước biển acid hơn, đã làm cho các trứng sò hàu hư tiệt . Và nếu đại dương tiếp tục acid hóa , những trại nuôi cá và hệ thống sinh học, gồm luôn cả các rạng san hô đã bị căng thẳng, cũng sẽ kế tiếp .
           Nguyên nhân hiện tượng acid hóa đã biết rỏ . Kể từ khi bắt đầu thời đại công nghệ , các đại dương đã hấp thu hơn một phần tư CO2  chúng ta thải vào khí quyễn. Từ bấy lâu nay , chúng ta vẫn tưởng hấp thu này là điều tốt đẹp, một thắng kềm hảm hiện tượng hâm nóng địa cầu. Nhưng thắng đã trở nên quá cao giá ! Khi CO2 trộn lẫn nước biển,   nó làm ra acid carbonic . Lần chót trước đây đại dương đã bị acid hóa quá độ như thế xảy ra cách đây 65 triệu năm, thành quả của họat động hỏa diệm sơn ( núi lữa ) , gây ra tuyệt tích rộng lớn . Ngay lúc đó , những loài sống sót cần hàng thế kỷ để thích nghi, cần nhiều thời gian hơn là   các lòai đang sinh sống ở đại dương hiện nay sẽ có được, nếu không làm điều gì hết .
           Không có giải pháp nào dễ dải cả thảy. Các kỷ sư địa chất đã đề nghị đổ xuống biển 300 tỉ bộ khối- cubic feet đá vôi , một nồng độ khổng lồ địa chất AlkaSeltzer, Ngay cả khi để ra ngòai những thắc mắc dị chứng không cố ý, tổn phí tính theo đô la và phát thải để sản xuất đủ thuốc giải độc kiềm, cũng qúa ngăn cấm và lợi ích cũng chỉ là tạm thời thôi. Tốt nhất có lẽ cũng chửa trị duy nhất ? là giảm bớt sản xuất CO2 . Vấn đề là một phần do trợ cấp của bộ luật thuế khóa Hoa Kỳ , đốt chảy bẩn thỉu các nhiên liệu hóa thạch  đã trở thành rẽ tiền hơn là những thay thế sạch hơn, một “ tiết kiệm” không tính   rỏ phí tổn môi sinh gay ra vì carbon ô nhiễm.
         Cách nào tính tóan giá cả thật sự đây ? Theo Hauke kite- Powel , một nhà khảo cứu ở Viện Đại dương học bang Massachusetts , thì một thuế carbon là biện pháp hay nhất. Theo một ước tính, chỉ thuế carbon 12.50 đô la Mỹ cho một tấn CO2 sẽ giảm phát thải 30 % , gạt ra ngòai chừng 214 triệu tấn ô nhiễm khỏi đại dương .  Như vậy sẽ không làm ngưng hẳn hiện tượng acid hóa, nhưng sẽ giúp đại dương ( và chúng ta ) có thêm thời giờ tìm cách cứu sống mình .
 
3-      Sửa chửa chu trình nước.
Khi khí quyễn nóng lên, chu trình nước, một tiến trình làm nước biển bốc hơi , rồi theo mưa rơi xuống, rồi lại bốc hơi, sẽ tăng cường thêm. Khắp mọi nơi,  mặt phă/ng đại dương   sẽ trở nên mặn hơn . Hơi nước bốc hơi thêm sẽ mưa rơi xuống   không theo tỉ phân , không đồng đều ở những vùng như nhiệt đới - tropics hay Scandinavia ( Thụy Điển , Na Uy… ) đem theo giông tố mạnh mẽ hơn và lụt lội thường xuyên hơn . Trong lúc đó, những vùng như phiía Bắc hay phía Nam nhiệt đới nay đã có khuynh hướng mặn hơn những vùng khác, trở nên mặn hơn và ấm hơn. . Ở nhưng vùng mặn nhất , những vùng “ sa mạc - desert” hiện hửu càng mặn thêm lên, không còn bất cứ đời sống nào còn tăng trưởng được nữa. “Sa mạc” đại dương đã tăng thêm từ 17 triệu dặm Anh vuông( 44 .3 triệu km 2 ) năm 1998 lên gần 20 triệu ( 51.8 triệu km2 ) năm 2007 .  
        Hiện nay các nhà khoa học không có nhiều khả năng chuyễn ngược việc tăng cường chu trình nước cũng như kiểm sóat mọi   khía cạnh khác của thời tiết . Thế nhưng một kỷ thuật tên gọi là Chuyễn đổi Năng lượng Nhiệt đại dương - Ocean Thermal Energy Conversion viết tắt là OTEC, có cơ phụ giúp. Vào thập niên 1970,   các kỷ sư bắt đầu dùng những bục dàn khoandể đem nước biển sâu   lạnh cóng lên mặt nước ấm áp ; với ý kiến là là sự khác biệt nhiệt độ sẽ làm chạy một động cơ nhiệt lượng, tạo ra năng lượng . Sử dụng kích thước đại trà , OTEC có thể có biến chứng lành mạnh là làm hạ nhiệt độ bao quanh mặt biển   và   đó sẽ là một điều tốt đẹp . Theo Ray Schmitt, một nhà đại dương học ở Wood Hole, nếu chúng ta hạ được nhiệt độ theo mùa mặt nước   biển , thì chúng ta ó thể chờ đợi là chu trình nước sẽ ít tăng cường hơn. Làn song đầu tiên của khảo cứu OTEC đã chết ngõm khi nhà máy trình diễn cuối cùng đớng cửa năm 1998 , nhưng nay thì   OTEC đang tái sinh. Từ năm 2009, Hải quân Hoa Kỳ đã trả cho hảng Lockheed Martin 12.5 triệu đô la phát triễn một nhà máy   OTEC thương mãi   gần Hạ Uy Di; và một tổ hợp quốc tế đang cứu xét xây dựng một nhà máy thứ hai ở Tahiti.
     Ở những vùng nước biển mặn nhất, lấy nước từ dưới sâu có thể làm ra những ốc đảo giàu có đời sống. Năm 2002, các nhà khảo cứu ở viện đại học Tohoku, Nhật bổn đã khởi sự thử nghiệm   “ một phông ten muối trường cửu - perpetual salt foun tain” , một ống mỏng chuyên chở   nước ít mặn từ dưới sâu   lên mặt nước biển mặn chát hơn. Nước lạnh chảy vào đáy ống, ấm hẳn lên rồi lên cao. Nhưng khi ước ấm lên, nước vẫn còn trương đối tươi mát, giàu dưỡng liệu và kích thích tăng trưởng chlorophyll và phiêu sinh thực vật- phytoplankton. Trong dự án của họ, các nhà khảo cứu Nhật đã dàn trải một ống PVC, nổi bồng bềnh trang bị GPS, dài 984 bộ ( 295.2 m ) ở vùng Hố sâu Mariana Trench Thái Bình Dương và các kết quả đầu tiên rất hứng khởi. “ Ngay ngòai ống , nồng lượng chlorophyll thật là to lớn” , theo lời Shigenao Maruyama , gíám đốc nhóm khảo cựu “ khỏang 100 lần lớn hơn vùng biển xung quanh” . Giống như OTEC, phông ten muối sẽ chỉ là một biện pháp tạm thời, lấp lỗ trống. một phương cách chửa trị một triệu chứng   của hiện tượng hâm nóng địa cầu - global warming hơn là một giải pháp giải quyết vấn đề nguyên tắc cơ sở. Maruyama rất lạc quan   về tiềm thế phông ten muối, để sửa chửa tai hại kích thước địa phương. Các thí nghiệm sẽ tiếp tục năm 2012, với một phông ten muối mới ở giữa biển đại dương.                       
 
                    4- Hãy bẻ cong những lòai xâm chiếm.
 
            Cách đây 50 năm, nếu bạn kéo lên một dây buộc neo, từ nước vùng vịnh Cape Cod , Đông Bắc Hoa Kỳ, dây trồi lên bao phủ đầy sò trai- mussels nhuyễn thể hai mảnh , động vật chân tơ- barnacles và rong tảo - algae . Ngày nay những dây này sẽ bao phủ đầy động vật không xương sống nhờn nhờn tên gọi là   lòai có áo -vỏ - tunicates , một trong vài 4000 lòai thủy sinh   xâm chiếm ( lăng ) khắp thế giới.
      Thương mãi làm lan tràn chúng, tỉ như   các lòai xâm chiếm đa dạng như   
lòai có áo- võ ở Đông Bắc Hoa Kỳ , cá sư tử - lionfish ởmiền Đông Nam và rừng sác ( rừng đước ,sú , vẹt… ) - mangroves ở Hạ Uy Di đang cạnh tranh cùng các lòai địa phương dành nhau tài nguyên, tấn công các sinh vật địa phương , và tái cấu tạo sinh thái .
    Lòai có áo - vỏ là một thí dụ sống động cách nào một lòai xâm chiếm có thể làm môi sinh tan hoang. Ít nhất là một lòai lạc vào New England thập niên 1970   , có thể do một  tàu chuyên chở Nhật đem lại , theo lời Mary Carman , một nhà khảo cứu ở Woods Hole.  Vài động vật có áo- vỏ - tunicates đã xâm chiếm các thảm rong tóc tiên - eelgrass , đẩy ra khỏi vịnh sò điệp - scallop, nguồn lợi tức chánh của ngư dân địa phương. Cố gắng hầu lọai bỏ lòai có áo -vỏ với cây cối lùm bụi và các nhúng tẩy sạch , không mấy hiệu quả . Một nhúm nhỏ xíu sót lại có thể nở bùng dậy thành một khối quần thể lớn lao . Carman nói: tính đàn hồi và dẽo dai của chúng thật đáng kinh ngạc.
        Một cách tổng quát, nhà sinh thái học James Carlton đại học William xem các xâm chiếm như thể kem đánh răng lòi ra khỏi ống , có nghĩa là không còn nhét vào lại được nữa. Ngay cả ở những ca hiếm hoi dò ra sớm sủa lấy chúng đi cũng là một thách thức lớn . Năm 2000, một thợ lặn nhìn thấy một rong biển - seaweed mới đổ thải vào một đầm phá - lagoon quận San Diego . Phải mất 6 năm trời và 7 triệu đô la mới lấy ra hết rong .           
        Cách thức hay nhất để giảm các lòai xâm chiếm là ngăn ngừa chúng đến. là nước làm bì, đồ dằn - ballast water của gần 100 000 tàu thương mãi đến Hoa Kỳ mỗi năm. Cơ Quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ - EPA và và Quân Tuần tra Bờ biển - Coast Guards đang soan thảo những điều hòa nước đồ dằn này, đặt ra các mức sinh vật chịu đựng được ở nước làm đồ dằn. Trong khi đó, nhiều tá công ty đang phát triễn những kỷ thuật thõa mãn đủ những tiêu chuẩn này, kể cả cách lọc và dùng phóng xạ tia cực tím computer hóa. Đối với các lòai xâm chiếm đã định cư, hy vọng tốt nhất để kiểm sóat số lượng chúng là xực - ăn chúng đi. Năm 2009, Cơ quan Quốc gia( Hoa Kỳ ) Đại dương và Khí quyễn- NOAA, tung ra một chương trình kích thích ngư dân, các đầu bếp và thực khách tiêu thụ ngon lành lòai cá sư tử - lionfish.
 
5- Cứu sống những rạng san hô
 
     20 năm qua, gần 1/3 san hô thế giới đã bị phá tan tành. Chừng 90% rạng - reefs san hô ngòai khơi bờ biển Tích Lan-Sri Lanka, Tanzania, Kenya, Maldives và Seychelles đang bị hiểm nguy. Nếu nhiệt độ tăng thêm 70 F ( 3.9 0 C ) trong 3 thập niên tới như tiên đóan thì  95% Rạng San hô Rào cản Lớn - Great Barrier Reef , ngòai khơi bờ biển Úc Châu sẽ biến mất . Nguyên nhân cơ bản của việc chết mất dần này là việc tẩy sạch - bleaching san hô. Khi nhiệt độ gia tăng, các vi khuẩn biển phong phú thêm và tấn công các rong tảo sống cọng sinh trong mỗi polyp cá nhân san hô. Rong tảo quang tổng hợp ánh sáng mặt trời thành năng lượng ( dưới thể những chất đường - sugars ) cho các chủ nhân và tô điểm màu sắc cho san hô.  Khi rong tảo chết, cái gì còn lại màu trắng như ma trơi.
      Vài san hô Hồng Hải - Red Sea và ở Vịnh Ba Tư đã thóat khỏi số mệnh này , dù chưa ai biết lý do tại sao. Eugene Rosenberg, nhà vi trùng học viện đại học Tel Aviv đã đề nghị là sự hiện diện nhiều dạng vi khuẩn khác nhau tạo ra khác biệt này . Ông nói : San hô có hàng ngàn lòai vi khuẩn sống chung, như trên con người vậy đó. Những vi khuẩn này có thể giúp san hô thích nghi với thay đổi môi trường .      
Chẳng hạn, khi nhiệt độ nước lên đến 77 0 F ( 25 0C ) ở Hồng Hải, một lòai vi khuẩn không cư ngụ biển này tên gọi là Vibrio caralliilyticus tấn công rong tảo ở vài lọai san hô. Thế nhưng những nhiệt độ tăng lên như vậy, cũng kích động vài lòai vi khuẩn khác của san hô bảo vệ rong tảo : có cơ giải thích tại sao vài lọai san hô lại không dễ bị tẩy sạch, ngay cả ở nhiệt độ cao. Nay thì chính Rosenberg và các đồng nghiệp cũng đang khảo sát   cách nào tăng cường mọi phòng vệ thiên nhiên của san hô. Một chiến thuật liên quan đến thả lởng các phagờ vi khuẩn - bacteriophages , nghĩa là các vi khuẩn tấn công virus trên V. coraliilyticus . Ở những thí nghiệm la bô mới đây, phagờ mau lẹ   phá hủy các vi khuẩn tẩy sạch và tồn tại trên san hô 2 tháng trời , ngăn chặn tấn công mới . Mùa hè 2011, trên vài phần Rạng Rào cản Lớn và rạng Eilath Reef Hồng Hải nơi lấm tấm nhiều nhóm san hô bị tẩy sạch, Rosenberg sẽ thử nghiệm phép chửa trị bằng phagờ . Ông sẽ phủ quanh các san hô bị bịnh bằng các san hô lành mạnh và trong một lọai san hô ông sẽ đưa vào một phagờ. Nếu mọi sự xảy ra y hệt ở la bô, pha gờ sẽ dính chặc vào V. corallilyticus . Khi vi khuẩn tấn công đến được lớp nhờn- mucus giàu dinh dưỡng của san hô lành mạnh, phagờ sẽ tăng trưởng 100 lần hơn và tràn ngập vật chủ. Rosenberg tiên đóan các mẩu kiểm sóat không có phagờ cũng sẽ bị tẩy sạch trong vòng một hay hai tuần lễ .
Nếu Rosenberg đạt kết qủa tốt, bước tiến lô gic kế tiếp là ứng dụng kích thước lớn hơn. Rosenberg cho biết với hơn 52 lít (13 ga lông ) chất lỏng trộn theo nồng lượng là 4 triệu phagờ trong 4 lít ( một ga lông ) , ông có thể chửa trị 30 dặm Anh ( 48.3km ) san hô. Ứng dụng cần một chiếc tàu hay một phi cơ.
 
6- Đánh cá không ngoan hơn
 
Năm 2010, mỗi người trên thế giới tiêu thụ trung bình 37. 5 cân Anh ( 17 kg ). Trong lúc đó sĩ số cá tuyết to đầu - cod và cá ngừ vi xanh - blue fin tuna suy sập và các động vật từ cá voi - whale đến rùa đã được ghi thêm vào sách lòai vật có nguy cơ tuyệt tích - Endangered Species. Thèm ăn ngấu nghiến ngon lành không chỉ là vấn đề duy nhất . Ngư phủ đánh bắt nhiều lòai không cố ý  trong cái  mà Tim Warner , giám đốc Bể nuôi - Aquarium  vùng New England Chương trình   Công nghệ Bảo tồn   Biển - Marine Conservation Engineering Program  ,gọi là “tai hại phụ thêm - collateral damage” của bắt cá ngẫu nhiên - bycatch  ở ngành đánh cá thương mãi. Bắt cá ngẩu nhiên gom vào lưới   nào là san hô, bọt biển, sao biển, cá mập , cá voi , rùa biển , và ngay cả chim nữa. Warner nói:   đây là một de dọa tức khắc mà da dạng nhiều diện mà biển phải đối đầu. Điều này dãn đến giả thiết tuyệt tích cá heo - dolphin sông Dương Tử ,gần như xóa bỏ hẳn cá heo vaquilla porpose Vịnh Ca Li ( chỉ còn sống sót 200 con này thôi ),và cũng đe dọa sống còn của cá voi hòan tòan Bắc Mỹ - North American right whale ( chỉ còn   400 con ) và chim hải âu đuôi ngắn - short tail albatross . Một báo cáo Liên hiệp Quốc ước lượng là bắt cá ngẩu nhiên là 7.5 triệu tấn một năm hay chừng 5 %   tổng số đánh cá thương mãi . Vì lẽ các bá cáo đều do ngư phủ bá cáo , ước lượng kém thực tế rất nhiều . Một thống kê tốt đẹp hơn , theo ông là từ ngành đánh tôm Vịnh Mễ tây Cơ, vài nơi vớt lên  5 cân Anh bắt cá ngẩu nhiên  cho mỗi cân Anh tôm bắt được. 
Tin tức tốt đẹp là so với vấn đề nan giải hơn là lạm thác đánh bắt hải sản , những giải pháp kỷ thuật giảm bớt bắt cá ngẩu nhiên rất nhiều . Chẳng hạn , các công ty đánh bắt tôm đã bắt đầu sử dụng “ những linh kiện bỏ rùa ra ngoài - turtle excluding devices” , những lưới sàng lọc quặng - grates trước lứơi vét ( lưới rê )- trawl net cho tôm chui vào, nhưng gạt rùa ra. Ngư phủ dùng những lưới chăng - gillnets dài dưới mặt nước biển, đã bắt đầu trang bị những lứới này với các linh kiện bay vèo - pingers âm thanh chạy bằng bình điện làm cá heo - porpoises xa lánh đi . Ở những ca tốt nhất, linh kiện bay vèo đã giảm bớt mỗi lưới chăng từ 20 con ca heo bị giết xuống chỉ còn một con .  Phó giáo sư Stephen Kajura, đại họcAtlantic Florida đang cố gắng bảo vệ cá mập bằng cách   thêm các yếu tố đất hiếm vào các dòng lưỡi câu dùng bắt cá ngừ .  Các kim lọai này phản ứng với nước biển làm ra một  trường diện từ - electromagnetic field đẩy cá mập cũng như cá đuối - skates và cá rái - ray ra xa. ( khác với Hoa Kỳ, nơi dân da trắng Ca li đang khuyến khích đừng ăn xúp vi cá mập, món ăn ngon của dân Hoa, và không ăn thịt cá mập , nhưng dân Ý cho bíp tết thịt cá mập rất ngon: và Bình Thuận là tỉnh đánh cá mập , xuất cảng thịt và vi cá này đáng kể hiện nay . FAO ước lượng mỗi năm trên thế giới tiêu thụ 7 triệu cá mập ).
Những giải pháp hửu hiệu nhất sẽ là những giải pháp rẽ tiền và dễ thi hành. Jeffrey Fasick phó giáo sư Viện đại học Kean , đang nghiên cứu viễn cảnh cá voi Bắc Đại Tây Dương - North Atlantic right whale trong một cố gắng phát triễn những dây thừng   màu sặc sở mà các động vật   thấy được và tránh xa. Tuy nhiên ,lề lối chỉnh đốn tính túy rẽ và dễ có thể là “ móc câu yếu - weak hook”, móc câu mỏng hơn uốn cong   theo cân lượng động vật ( cá ngừ vi xanh , cá mập , cá voi ) lớn hơn   cho lọai móc câu dùng câu cá ngừ vi vàng - yellow fin là lọai cá ngừ Biển Đông Biển Tây nước nhà. Thí nghiệm ở biển, móc câu yếu , giảm bớt 56% bắt cá ngẩu nhiên - bycatch đánh bắt cá ngừ vi xanh , đang bị hiểm nguy tuyệt tích, thành quả đủ đáng kể để Cơ quan NOAA   ra mệnh lệnh một ngày gần đây là phải dùng móc câu yếu ở vùng cá ngừ vi xanh .
 
 7 - Tăng gia hiểu biết của chúng ta
 
Những gì chúng ta hiểu biết thật sự rất ít ỏi . Chúng chưa biết   cách nào nhiệt độ thay đổi vùng giữa bề sâu nước biển : các máy dò vệ tinh  nhìn xuống sâu ít hơn 2.1 m ( 7 bộ Anh ) từ mặt biển . Chúng ta không biết hình thể : các đồ bản chúng ta  chỉ bao gồm có 10 % phần sàn đáy biển . Chúng ta cũng không biết ai sinh sống ở đó. Các nhà khoa học hòan tất   Kiểm tra Đầu tiên Đời sống Biển, một sáng kiến khảo cứu quốc tế, năm 2010 đã cho tài liệu của 190 000 lòai, nhưng hầu như không biết gì hết đến hơn cả triệu lòai khác sinh sống ở đáy biển .
Thế cho nên chúng ta tuồng như lạc đường khi ở biển. Một nhóm nhà khoa học viện đại học UC Berkeley, chẳng hạn, tuyên bố là một vi trùng chưa biết trước đây ,  nhai gặm  dầu lữa - petroleum munching   đãmột cách ngạc nhiên làm biến mất   chùm dầu - oil plume dài 35.4 km ( 22 dặm Anh ) ở tai họa Deepwater Horizon Vịnh Mexico năm 2010. Nhưng vài người khác biện cứ là chùm dầu  không biến mất, mà chỉ vì chúng ta không biết hòan tòan  đủ hết ,  cách nào nó đã biến mất. Theo Larry Mayer, chủ tịch Ủy Ban nghiên cứu sinh thái vùng Vịnh này sau sự cố phun chảy dầu, Viện Hàn Lâm Khoa học Hoa Kỳ, “thật sự điều không biết là các sự phụ thuộc lẫn nhau- interdependencies , những liên kết tuyệt đối phức tạp. Khi bạn khởi sự đặt câu hỏi về ảnh hưởng của dầu ở mức lưng chừng giữa bề sâu nước biển, trên khu sinh vật - biota biển sâu hay cách nào chúng đổ thác vào khí quyễn, hay cách nào chúng ảnh hưởng đến nghêu sò hay sò điệp, những điều như thế không một ai thực sự biết cả.
Giora   Proskurowski, một nhà đại dương học viện đại học Washington, nói rằng kích thước của đại dương chính là vấn đề. Nước mặn bao phủ 72% hành tinh, chiếm 139 triệu dặm Anh vuông ( 223.7 triệu Km2 ) . Nhưng không phải chỉ riêng diện tích mà là luôn cả bề sâu nữa. Và theo thời gian chúng rất năng động. Động cơ các tàu khảo cứu cần 5- 10 ngày , mỗi ngày tổn phí 25 000 đô la Mỹ, để đi đến giữa đại dương. Ở biển sâu , tạo ra một hình dạng độ mặn và nhiệt độ có nghĩa là đậu tại chổ hơn 4 tiếng đồng hồ tháo ra và cuộn lại 10 000 bộ Anh ( 3000 m ) dây dợ .
 Lấy mẩu trên tàu phải làm từng miếng một, những điểm duy nhất trong không gian , những điểm duy nhất theo thời gian . Này dù cho các nhà khoa học cố thúc đẩy một phương pháp tòan diện hơn: thâu thập dữ liệu liên tục. Proskurowski, Mayer và hàng trăm người khác, đang họat động Ở Sáng kiến Đài quan sát Đại Dương- OOI tốn 760 triệu đô la Mỹ  của   Cơ quan Khoa học Hoa Kỳ, sẽ kéo dây trên Thái Bình Dương và Đại Tây Dương với một mạng cáp dữ liệu và điện . Mạng sẽ gửi 200 kilowatts để có điện điều khiển từ xa, chạy các xe đang họat động và 49 lọai máy dò - sensors và đưa dòng dữ liệu về những đường dây sợi quang học. Trung Quốc, Nam Hàn ( Hàn Quốc ) và nhiều quốc gia Âu Châu đang đeo đuổi những “Đài Quan Sát Cáp” tương tự , mở màn cho một mạng chung của nhiều mạng. Trong khi đó, Ronald O’Dor , nhà khoa học chánh cho Kiểm tra Đời sống Biển đang cố dàn trải Mạng Theo dấu Đại Dương - Ocean Tracking Network - OTN , trị giá 170 triệu đô la, một quần hợp theo dấu cá hồi, cá mập, hải cẩu ( chó biển ), và các động vật biển khác với các thẻ âm thanh- acoustic tags , đặt nằm những đường nhận nghe  tại mỗi bán cầu , một lọai “ hệ thống điện thọai” cho các đại dương.
 Như vậy đem tới cho chúng ta một phương cách khác cứu sống biển : tiền bạc . Ngân sách thám hiểm của NASA là 900 lần hơn ngân sách các cơ quan NOAA. Ngân sách xây dựng của OOI là 387 triệu đô la, 1/17 ngân sách của Viễn Vọng kính Không gian James Webb, thay thế cho Viễn vọng kính Hubble, tổn phí 6.5 tỉ đô la. O’Dor đang cố gắng tìm thêm ngân khoản  và tuyển dụng các nhà khoa học cho hệ thống điện thọai đại dương của OTN, sử dụng các đường dây trong đất liền ở văn phòng ông tại Hoa Thịnh Đốn. Ông cho biết ông điều khiển dự án tòan cầu này ,nhưng đến bây giờ, ông vẫn chưa có ngân sách di chuyễn .                                                             
( Chiếu theo Popular Science số tháng 5 , 2011 )
          (Irvine , Ca li ngày 7 tháng 5 năm 2011)
                                                                                                  
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 792046 visitors (2092722 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free