TRUNG HỌC NÔNG LÂM SÚC CẦN THƠ
  Đòng Nai Biên Hòa 2
 
Lên mạng ngày 11/6/2011

Lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai – Biên Hòa
G S Tôn Thất Trình

 
            Phần B : lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng Nai - Biên Hòa.
          
          B – I: Phát triễn nông nghiệp
 
         I - a : Từ lúa gạo, cây trái cỗ truyền đến hoa màu cải thiện lúa cao năng Thần Nông, lúa lai ưu thế lai PAC807,   bắp lai cao năng , khoai mì cao năng…
 
         Khi chưa tiến nhiều xuống đồng bằng sông Cữu Long, Đồng Nai còn là vựa lúa cho xứ Đàng Trong ( “thứ nhất Đồng Nai, thứ nhì hai huyện  Lệ Thủy và Phong Lộc        tỉnh Quảng Bình hay Đồng Nai gạo trắng như cò…” ) , cây ăn trái như bưởi Biên Hòa và các chuối Đồng Nai v.v… Thời Pháp thuộc phát triễn cao su và các thời tiếp theo  phát triễn  mía , đậu nành- đổ tương, cà phê, thuốc lá, tiêu, hột điều -đào lộn hột …, đặc biệt là các hoa màu như bắp ( ngô ) khoai mì ( sắn ), đậu phụng ( lạc ), khoai lang … mà  nhiều giống , tinh dòng ( gây, nhân giống vô tính – asexual propagation ), nhiều kỷ thuật cải thiện phát xuất từ Trung tâm Khảo cứu Nông Nghiệp Hưng Lộc , Biên Hòa – Long Khánh, thiết lập thời Đệ Nhất Cọng Hòa, cũng ít người nói tới . Nếu không có chiến tranh Việt Nam ( Nam Bắc ) , thi có lẽ Hưng Lộc đã trở thành Trung Tâm Hoa Màu Nhiệt đới Quốc tế Á Châu ( đặc biệt bắp lai cao năng kiểu Mỹ, khoai mì giống mới Phi Châu hay Nam Mỹ, đập phụng Virginia, Spanish Mỹ Châu hay Phi Châu, đậu nành Mỹ, khoai lang tía Nhật ,nay trồng trên đất xám bạc màu phù sa cỗ….) thay vì ở Thái Lan  ( Kasetsart )hay Ấn Độ ( ICRISAT – Hyderabad ) . Cũng như  Trung Tâm Lúa Gạo Quốc Tế IRRI, thay vì ở Phi Lụât Tân , đã có thể là ở Việt Nam ( Cần Thơ hay Sóc Trăng ), vì phái đòan lúa gạo FAO quốc tế khi  đến các nước lựa chọn vị trí trung tâm lúa gạo, đã để ý tới các nơi này cuối thập 1950-đầu thập niên 1960, trước khi phải lựa chọn năm 1962 Los Banos – Phi Luật Tân, một quốc gia trồng ít lúa gạo hơn Việt Nam . Ngòai các cây công nghiệp lâu năm : cao su , cà phê, hột điều…, Đồng Nai nay tương đối có diện tích lớn nước nhà về bắp, mía, đậu nành ( đổ tương ), đậu phụng ( lạc), khoai mì( sắn ) , khoai lang, thuốc lá … Tuy vậy, vì hai lảnh vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng nhanh từ đầu thập niên 1990, trị giá nông lâm nghiệp ở tam giác tăng trưởng vùng “ đất hứa” địa bàn trọng điểm công nghệ là TP Hồ Chí Minh- Đồng Nai - Vũng Tàu, chỉ còn 12. 5% GDP, so với 39.6 % ở công nghiệp - xây dựng , 47.5 % ở Dịch Vụ. Năm 1995, nông lâm ngư nghiệp tòan cõi Việt Nam là 27, 2% GDP , công nghiệp xây dựng cơ bản là 30.3 % và dịch vụ là 42,5 %, nghĩa là cơ cấu của một nước thu nhập thấp kém.                    
      Tuy tỉ lệ nông nghiệp ở GDP, mỗi ngày mỗi giảm so với hai lĩnh vực kia, Đồng Nai vẫn là  một tỉnh miền Đông Nam Bộ có đất đai nông nghiệp lớn. Năm 2001, diện tích đất nông nghiệp Đồng Nai chiếm 300 200 ha, lớn hơn cả Bình Thuận nay xếp vào Miền Đông Nam Bộ diện tích đất nông nghiệp chỉ 208 000 ha, tuy tổng diện tích Bình Thuận lớn hơn 7828km2 . Chỉ sau Bình Phước  có diện tích đất nông nghiệp là 421 400 ha và tổng diện tích Bình Phước 6856  km2 cũng lớn hơn.  Diện tích đất nông nghiệp vẫn tiếp tục gia tăng, vì đến năm 2007 lên đến 369 195 ha , phải nuôi sống 1. 6 triệu nông dân tỉnh nhà , nghĩa là trên 70 % tổng dân số. Có lẽ nên nhắc lại là đợt di dân thứ ba sau 1975- 80 của đồng bào châu thổ sông Hồng bà con với dân di cư công giáo “Hố Nai- Gia Kiệm” 1954- 56 vào Đồng Nai tuy giàu có hơn hẳn nơi quê cha đất tổ không đất hay ít đất, và không còn mấy trồng lúa, cũng vẫn là nông dân, dân nông thôn.  
        Tuy thời các chúa Nguyễn Đồng Nai là vựa lúa gạo xứ Đàng Trong, nhưng nay diện tích chỉ lên xuống ở khỏang 70 000 – 80 000 ha ( 1995- 2002 ) mỗi năm cả ba vụ: năng xuất còn kém cõi khỏang 3. 5 – 3.6 tấn /ha/vụ , kém hẳn năng xuất  lúa nước 4,5 tấn / ha ở tỉnh Ninh Thuận - Phan- Rang, tỉnh khô hạn nhất nước nhà ( nay cũng là thuộc miền Đông Nam Bộ như Bình Thuận - Phan Thiết), dù rằng khởi thủy kỷ thuật  cận đại theo tiểu điền tăng gia năng xuất, sản lượng các giống lúa Thần Nông –IR như đã nói ở phần A là ở Trung tâm cù lao Phố và chính ở khu công nghệ Biên Hòa cũ, có trước nhất công ty nhà máy sản xuất nhiều lọai nông cơ mới cho lúa nước VIKINO, thành lập từ năm 1967… ) , nhà máy  pha trộn các phân hóa học thích nghi, nhà máy pha  thuốc bảo vệ mùa màng v.v… Không rỏ các giống lúa lai ưu thế lai – hybrid rice mới ( các giống lúa Thần Nông -IR là các giống nội phối – inbreds hay “lúa thuần” cao năng, cao phẩm tuyễn chọn  cháu chắt, sau khi lai các giống cha mẹ thích nghi ) do công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam nhập nội, khảo nghiệm ngắn ngày tỉ như PAC 807 , chống đổ ngã, bông to, trồng quanh năm, kháng bệnh đạo ôn ( cháy là ), lùn xoắn lá.., gạo dài , ( 7mm) không bạc bụng , mềm cơm, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, năng xuất 7-8 tấn ( thâm canh tốt dạt 10- 11t/ha/vụ) có thích nghi cho những sinh thái ruộng lúa nước tỉnh Đồng Nai chăng ? Đồng Nai cũng là tỉnh có diện tích trồng bắp ( ngô ) lớn nhất nước, diện tích trung bình trên 65 000ha, gấp đôi diện tích bắp hai tỉnh Đông Bắc ( Hà Giang, khỏang 40 000 ha, Cao Bằng khỏang 32 000 ha ) và Thanh Hóa (45 – 50 000 ha ) tỉnh Bắc Trung Bộ trồng nhiều bắp nhất, và áp dụng kỷ thuật cũng trồng các giống bắp lai cao năng kiểu Hoa Kỳ ( kỷ thuất bắp giống lai của các hảng Pioneer, Cargill …. ) bộ Nông Nghiệp đã khảo cứu nhiều năm  ở miền Đông Nam Bộ , sau năm 1975, đặc biệt ở Trung Tâm Hưng Lộc ( ? ).  Tuy vậy bình quân đầu người lương thực mễ cốc ( cereals ) quy thóc ( lúa ), ( một mức tiêu chuẩn ý niệm đủ lúa gạo ăn suốt năm),  các năm 1995 – 2002  của tỉnh Đồng Nai, chỉ mới đạt mức   220 – 250 kg (muốn đủ nhu cầu lương thực, bình quân đầu người quy thóc một năm phải trên 500 Kg). còn thua kém Tây Ninh ( 540 – 593 kg ), tuy đã vượt xa hai tỉnh miền Đông Nam Bộ khác là Bình Phước ( khỏang 75 kg) và Bình Dương ( 90 – 115 kg ). Không một tỉnh nào của Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ( ngọai trừ Tây Ninh ) các năm vừa kể, đạt mức tiêu chuẩn  bình quân đầu người qui thóc cả thảy . Ở đồng băng sông Hồng thì đã có các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình luôn luôn vựợt mức tiêu chuẩn ; Hải Dương , Hưng Yên trên mức tiêu chuẩn những năm được mùa và Bắc Ninh ít hơn  mức tiêu chuẩn đôi chút. Các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long : thường sản xuất mỗi năm gần hai lần mức tiêu chuẩn là Trà Vinh, SócTrăng, Vĩnh Long ; trên hai lần là Long An, An Giang , Cần Thơ, Bạc Liêu , Đồng Tháp : và đặc biệt gần ba lần là Kiên Giang vào những năm cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000. Cà Mau trụt xuống dưới mức tiêu chuẩn các năm đầu thập niên 2000, khi dân chúng đưa nước mặn vào ruộng lúa nuôi tôm lợi hơn lúa. Bến Tre, xứ dừa, luôn luôn chỉ mới đạt trên phân nữa mức tiêu chuẩn đôi chút! Nếu không tiến triễn nhiều thêm được về mức tăng gia lúa gạo về năng xuất trong tương lai, vì  ít đất phù sa mới thích hợp lúa nước so với đồng bằng sông Hồng hay đồng bằng Sông Cửu Long, tỉnh Đồng Nai có lẽ nên  chuyễn đổi cơ cấu cây trồng qua bắp lai cao năng vì năng xuất trung bình ở tỉnh nhà còn qúa thấp,  các lọai lương thực củ như khoai lang  ( không phải làm lọai thực phẩm chính ăn độn gạo vào những năm mất mùa lúa, mà là là củ  các lọai khoai lang “tía “ Nhật bổn mới đây ( các giống   DST , CM , N1, N2, NH3, HN 418) trên những đất xám bạc màu như ở làng Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc , năng xuất thu hoạch sau 3 tháng trồng đến 20 tẩn/ha năng xuất lúa nước quá kém  làm các món ăn phụ trộn “rau” canh, hay các lọai cũ nhiệt đới  khoai môn - taros, khoai mở - ignames ( yam ) … công dụng như “rau”  khoai lang tía , nay đã thấy bán nhiều ở các siêu thị Tàu – Á Đông. Một lọai củ - root crop cỗ truyền khác là khoai mì – sắn ( cassava , manioc )  mà Trung Tâm Hưng Lộc – huyện Long khánh Đồng Nai, cũng đã tuyễn chọn với sự cộng tác của Trung tâm Quốc tế Canh Nông Nhiệt đới - CIAT , Nam Mỹ Châu tạo ra nhiều tinh dòng mới ( gọi là tinh dòng –clones vì trồng bằng hom vô tính – asexual cuttings, khúc thân,  thay vì hột giống chỉ sử dụng khi lai tuyễn chọn di truyền ) cao năng gấp 4-5 lần năng xuất các tinh dòng cỗ truyền ( tỉ như HL -HưngLộc 20 , HL 23, HL 24 , KM 94 ( Kasetsart 50 ) KM 60 ( Rayon 60 )… , góp phần  giúp cạnh tranh thắng lợi  công nghệ làm bột ngọt nước nhà, làm bột năng – tapioca, làm ethanol ( hình như có phần tốt hơn cả từ bắp kiểu Hoa Kỳ hay từ mía, kiểu Brasil ? ), làm thực phẩm gia súc ( kể luôn cả lá chứa nhiều chất dinh duỡng tốt, nhiều protein …. ), bột pha trộn được với bột lúa mì lên men làm bánh mì tây phương đặc sản kiểu Brasil ăn sáng, pha trộn làm bánh phồng tôm Sa Giang – Sadéc … Diện tích khoai mì  các năm 2001 -2002 ở tỉnh Đồng Nai là 16 000 ha gấp đôi diện tích các năm1999- 2000 , tuy ít hơn Tây Ninh, Bình Phuớc; năng xuất có phần cao hơn 11 – 15t / ha,  nhưng còn kém năng xuất khoai mì trung bình ở Thái Lan 22- 25 t/ha, sau xa năng xuất các tinh dòng cao năng tiềm thế  đã có trong nước là  50 -60t/ha.
       
     I- b . Tiến tới chuyễn đổi cơ cấu vòng cung xanh – rau hoa, vòng cung trắng sửa tươi , các làng chuyên canh đặc sản
Đồng Nai phải lợi dụng tính cách ngọai ô của thành phố Sài Gòn làm ra vòng cung – vành đai rau đậu- vegetablescây cảnh hoa kiểng – flowers, bonsai- ornemental trees quanh Sài Gòn, để phục vụ phong phú hơn dân trung lưu yêu cầu mới cũ các thành phố, thị trấn đang dâng cao hơn lên ở miền Đông Nam Bộ; bổ sung các  thực phẩm rau hoa cây kiểng bán ôn đới Đà Lạt – Bảo Lộc , Lâm Đồng  thiết lập cung cấp cho Pháp Kiều mất liên lạc với mẩu quốc thời điểm 1940: nhấn mạnh đến những lòai nhiệt đới đã xuất khẩu được như dưa leo bé nhỏ- baby cucumber , khoai lang tía , cà chua , các lọai đậu , ớt , hành tây , hành ta… cố gắng dùng các kỷ thuật canh tác tốt – GAP ( Good agricultural Practices ) nước sạch không ô nhiễm, kiểm dịch – vệ sinh đàng hoàng, để bán ra rau đậu tươi thay vì chỉ thường xuất khẩu dưới các thể chế biến đóng hộp, sấy khô hay đông lạnh. Một lọai rau mới phát triễn ở Long Khánh là rau lá nho , thay vi trồng ăn trái nho ( hay làm rượu nho, bồ đào mỹ tửu) . nay trồng khai thác lá xuất khẩu sang Đông Âu và Trung Đông , dưới thể bảo quản đựng thùng nhựa kỷ thuật Hoa Kỳ công ty thực phẩm Mỹ Yeget thu mua; hom giống nho IAC mua từ Bình Thuận. Xây dựng những làng chuyên canh như đã thực hiện trong tỉnh nhà, 25 làng trồng các lọai nấm – mushroom cultivations : nấm mèo – Auricularia sp., nấm rơm Volvoriella sp ., nấm bào ngư Pleurotus sp -   nấm đầu đinh enoki, nấm đông cô … nấm dược phẩm Linh Chi reishi Ganoderma sp. ; sản luợng trên 30 000 tấn nấm tuơi ( 5000 tấn nấm khô ) vào năm 2007. Tương tự cách thiết lập những làng trồng nấm  chuyên canh ở tỉnh Đồng Nai là những làng chuyên canh cây ăn trái “ tươi “( ăn quả ) như đã có làng bưởi Biên Hòa– TânTriều :   chuối , thơm dứa , đu đủ , sòai riêng , ổi xa lị, chuối bé- baby bananas ngon ngọt hơn lọai chuối Già to ( chuối xiêm , chuối cau , chuối mật mốc, chuối ngự , chuối Đồng Nai… ),  nhãn, chôm chôm, các lọai mơ lông- dưa hấu -dưa gang Trung Á, và tại sao không  nhãn lồng, chùm bao “chanh dây “ – passion fruit  xứ nóng , cây bơ lòai lai cho xứ nóng, các lọai mận ta ( roi , đào –lý, táo ta , xơ ri Gò Công- Barbados cherries Acerola… ), táo ta – jujuba nhiều giống cải thiện trái to ngon ngọt hơn các giống táo đào tiên, táo ta Thái Lan, ngay cả chùm ruột, bần( bồ ) quân, bòn bon ngọt- langsat lịm Mã Lai, dâu da, dâu ta  đỏ ( nam trân )- rambai sp. cải thiện, mảng cầu dai như đã có ở Tây Ninh, ngòai mảng cầu dai Tân Thành- Gò Công trước chiến tranh gần khí hậu biễn, mảng cầu xiêm -corrosol giống mới Mexico , dừa lùn hay dừa xiêm… lấy nước uống ( không phải là nạo gáo, ép khô dầu lấy dầu xưa cũ )…         
         Mở rộng thêm cây ăn trái, cũng như các cây công nghệ lâu năm, tất nhiên phải  duyệt xét lại  chương trình trồng lại 5 triệu ha, quan niệm  còn hơi xưa cũ, quá thiên về môi sinh ôn đới hay bán ôn đới các nước đất rộng người thưa, trong khi nước nhà phần lớn khí hậu nhiệt đới hậu đất hẹp người đông. Ở tỉnh Đồng Nai, có lẽ nên duyệt lại cách thức diện tích và ranh giới các rừng bảo vệ , rừng  bảo tồn nguyên thủy, lưu vực thủy điện, thủy nông, công viên bảo tồn thực vật-động vật hiếm có, mục đích đúng kinh tế hơn, khoa học nhiệt đới hơn cho các rừng trồng lại lọai cây gỗ ,tre mây …Tỉnh Đồng Nai có chừng 180 000 ha đất lâm nghiệp, có ba công nghệ lâm nghiệp quan trọng cho nước nhà là giấy,  đồ tre mây và đồ mộc gỗ xẽ gỗ ván ( ? ). Mức xuất khẩu đồ mộc- tre mây của Việt Nam năm 2008 đã là 2, 4 tỉ đô la, giá trị trên xuất khẩu gạo và nhiều nông phẩm khác, chỉ sau ngư sản . Đồng Nai nổi tiếng  xa xưa là nơi rừng tre mây bạt ngàn, một trong những tỉnh nhiều rừng tre nứa, cao hơn mức trung bình cả nước có 1, 4 triệu ha tre nứa, 10,5 % tổng diện tích đất rừng lâm nghiệp , cung cấp mỗi năm 400- 500 triệu thân tre -nứa - luồng- mạy …  nhưng nay đã có dấu hiệu là thiếu tre làm giấy  ( nhà máy giấy Đồng Nai Cogido thời Cộng Hòa sử dụng nhiều lọai tre , chẳng hạn  các lọai tre lồ ô Bình Phước ) và công nghệ đan tre. Từ lâu Việt Nam  đã phải nhập khẩu  mây cho công nghệ, dù trong nước đã kiểm kê đến 30 lọai mây  trong số này có 10 lọai có gía trị kinh tế cao, nhiều lọai này hiện diện ở các rừng Đồng Nai ; mức xuất khẩu đồ mây Việt Nam chiếm trên 20 % thị trường quốc tế .  Mức nhập khẩu lên đến 33 ngàn tấn mỗi năm cho nhu cầu mây tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tổng cọng chừng 60 – 80 000 tấn một năm. Việt Nam đã có 2017 làng tiểu công nghệ tre mây trong đó 723 làng chuyên đan mây. Trị giá hàng xuất khẩu tre mây đã đạt 219 triệu đô la năm 2007,  năm 2010 lên đến trên 300 triệu đô la Mỹ , bán cho 120 quốc gia trên thế giới và xử dụng trên 342 000 nhân công . Rừng Việt Nam sản xuất  chừng 3 triệu mgỗ  không đủ dùng cho khỏang 1500 doanh nghiệp cưa xẽ , chế biến gỗ, làm các bàn ghế, tủ, giường thời trang, cận đại … của 2 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương cùng Thành phố HCM nơi tập trung công nghệ này để xuất khẩu. Như đã kể trên , ngòai việc kiểm sóat lạm thác, Việt Nam cũng như tỉnh Đồng Nai cần duyệt xét lại việc bảo vệ , khai thác rừng tre mây , cố gắng tổ chức những làng chuyên trồng tre mây cho những khu vực tập trung được quanh làng chừng 30 – 50 000 ha , như đã thành công trồng tre “ luồng”   Dendrocalamus barbatus  ở tỉnh Thanh Hóa hay trồng mây ( mây đan , mây manh, mây Bắc Bộ-  glutinous rattan ? ) cao năng và ngắn ngày, chỉ 5 năm là khai thác được ở tỉnh Thái Bình.    
         Hai lảnh vực khác đáng nêu lên là chăn nuôi và ngư nghiệp lục địa. Nuôi gà thịt kỷ thuật Hoa Kỳ qui mô ở tỉnh nhà còn nhỏ bé,  còn phụ thuộc quá nhiều về nhập khẩu bắp Hoa Kỳ, vì chương trình khoai mì chưa phát triễn hướng về chăn nuôi,  bắp lai cao năng chưa  phổ biến đủ kỷ thuật  chuyễn đổi cơ cấu sản xuất thích nghi đại trà  cao năng hơn, tuy Đồng Nai đã tiến bộ nhiều về lai tạo các giống bắp lai cao năng sau 1975,  như đã nói trên. Hình như mới đây, một cơ cấu chăn nuôi bò sửa liên doanh năm 2003 chánh phủ chỉ còn giữ 47.6 % cổ phần mà thôi, là Vinamilk thay cho công ty quốc doanh cũ thành lập năm 1976, do một ban quản trị hòan toàn là phụ nữ, đã thành công   cung cấp một triệu cốc sửa tươi một ngày cho trẻ em, thu mua  các trại chăn nuôi bò sửa tỉnh nhà . Đầu thập niên 1960, trại bò sửa  thử nghiệm tân tiến Úc Châu viện trợ thành lập đầu tiên ở Bến Cát – Bình Dương, đã bị tàn phá vì chiến tranh .
        Sản lượng thủy sản nuôi trồng đã tăng hơn gấp đôi từ 6131 tấn năm 1995, lên đến trên 13 000 tấn năm 2002, còn có thể tăng thêm hơn nữa khi sử dụng đúng tiềm năng các hồ trử nước thủy điện : hồ Trị An  diện tích mặt nước 32 300 ha và hồ La Ngà…, cũng như 60 sông suối, kênh, đất thấp đầm lầy hệ thống sông Đồng Nai đặc biệt nuôi cá bè như đã nói ở phần tổng quát , nuôi tôm nước ngọt , cá nước ngọt như cá tra, cá rô phi , điêu hồng tòan đực hay các lọai khác của sông Đồng Nai và chi nhánh v .v… góp phần tăng sản lượng xuất khẩu thủy sản tòan quốc năm 2010, đã đạt 5.034 tỉ đô la- USD ( vượt kế họach dự trù là 4.5 tỉ ) và 1 353 triệu tấn.                 
       
    I – c . Tiến thêm về các cây công nghệ lâu năm: cà phê vối Robusta , cao su cao năng ba công dụng,  cây hột điều tháp tinh dòng cao năng , tiêu xen kẻ cây hột điều đất xám  … , chú  tâm hơn nữa về cách chế biến làm sạch hay bớt ô nhiễm…
       
      Có lẽ tốt hơn nữa cho nông nghiệp tỉnh Đồng Nai là mở rộng thêm và cải thiện năng xuất , phẩm giá các cây lâu năm công nghiệp như cà phê , cao su , hột điều , ( hồ ) tiêu. Khí hậu , đất đai Đồng Nai rất thích hợp cho  lọai cà phê vối Robusta. Diện tích cà phê Robusta không đáng kể ở tỉnh Đồng Nai trước năm 1975,  năm 2004 đã đứng hàng thứ tư nước nhà,diện tích trên 60 000 ha , chỉ sau Đắc Lắc ( Ban Mê Thuột ) 234 000 ha , Lâm Đồng 100 000ha và Pleiku – Gia Lai 75 000 ha ,  trong tổng số 506 500 ha cà phê tòan quốc năm đó. Góp phần đưa Việt Nam lên hàng thứ nhì xuất khẩu mọi lọai cà phê, sau Brasil, trên hẳn Colombia, Inđônêxia và Bờ Biễn Ngà- Côte d’ Ivoire  và hàng thứ nhất xuất khẩu cà phê vối Robusta,có tỉ lệ cafêin cao nhất. Năm  2008 , Việt Nam đã xuất khẩu 994 000 tấn cà phê, đa số là Robusta, trị gíá 2. 003 tỉ đô la Mỹ và năm 2009 xuất khẩu 1183000 tấn, trị giá lại thấp hơn 1. 731 tỉ. Năm 2010. Việt Nam xuất khẩu 1200000 tấn, 20 -30 000 tấn cao hơn 2009, nhưng trị giá cũng chỉ là tương đương 1. 7 tỉ đô la . Năm nay 2011,  cà phê lên gíá lại trên thương trưòng quốc tế và ước lượng quốc tế sẽ còn tăng thêm nữa  những năm tới, nên chắc chắn tỉnh Đồng Nai sẽ còn tăng thêm diện tích và sản lượng cà phê . Vì không những Đồng Nai có thể có đủ nước tuới dặm mùa khô cho cà phê khỏi rụng hết hoa đầu mùa lỡ khi mưa đến chậm, cà phê cần nhiều nhân công chăm sóc , thu họach , 230 ngày công/ ha . Hệ thống thu mua cà phê cũng rất có lợi cho nông dân tiểu điền sản xuất; theo nhiều nghiên cứu cho biết 90% tiền bán FOB ( Free On Board )được hòan lại cho nông dân. Đồng Nai còn có lợi nhờ công ty Thái Hòa thu mua, sản xuất, chế biến cà phê ngay tại  khu công nghệ tỉnh nhà, tương tự công ty cà phê Tây Nguyên ở Ban Mê Thuột vậy đó. Cũng như lúa gạo và nhiều nông phẩm khác, vấn đề cho ngành cà phê Việt Nam là phẩm giá và nhãn hiệu- brand name đặc hửu cà phê nước nhà để tăng thêm trị giá xuất khẩu, nâng cao thêm lợi tức cho các tiểu điền trồng cà phê. Sản lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu, như đã biết, đứng hạng nhì thế giới, nhưng chỉ được xếp vào hạng tư trên cương vị phẩm giá !   
        Thứ đến là cao su thiên nhiên Ngân Hàng Đông Dương cũ đầu tư tài trợ lập các đồn điền- đại điền Pháp phần lớn trên đất đỏ latosols, nay cọng thêm các tiểu điền Việt trên các đất đai hệ thống sông Đồng Nai. Năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu 650 000 tấn cao su thiên nhiên trị giá 1.593 tỉ đô la và năm 2009 tăng lên 731 000 tấn, trị giá 1. 227 tỉ đô la. Giá cao su thiên nhiên tiếp tục gia tăng , nên xuất khẩu cao su là 783 000 tấn năm 2010, trị giá 2. 37 tỉ đô la. Diện tích phát triễn cao su cao năng trên đất đỏ, nâu  đỏ latosols tỉnh nhà gần cạn kiệt, khai thác hết. Vì vậy phải tìm cách trồng cho được cao su cao năng trên đất phù sa như Đồn diền Pháp cũ Michelin đã làm ở Dầu Tiếng hay tiến thêm , hòan tất mau hơn các thử nghiệm cao su trên đất đất xám bạc màu có kết von laterit khá xa mặt đất, địa phương gọi là “ đất khốp” ,  lọai ít khi ngập nước nhiều tháng, và tỉnh Đồng Nai có vũ lượng cao hơn 1000 m , một giới hạn mức tăng trưởng cây cao su đáng kể trên đất khốp. Ngòai việc thực hiện trồng 200 000 ha cao su trên đất đỏ ở Lào, ở Cam Bốt; diện tích các doanh nghiệp trồng cao su Việt Nam ( tập đòan công nghiệp Cao su Việt Nam VRB , Đắc Lắc, Bình Định, CP Hòang Anh Gia Lai v.v…), đã đạt 54 640 ha ở Lào từ năm 2005 đến năm 2010 . Khả năng cải thiện năng xuất với các tinh dòng và kỷ thuật chăm sóc vườn cao su cận đại tỉnh nhà đã có sẳn, nên mức sản xuất còn có thể gia tăng , cũng như diện tích khai thác tổng diện tích trồng mới đến 60%. Áp dụng trồng các giống nguồn gốc Mã Lai, có khả năng làm bột giấy và làm gỗ cưa-xẽ, kỷ nghệ đồ mộc - furniture nước nhà còn nhập khẩu  nguyên liệu đến hơn 1 tỉ đô la ,  khi  vườn già cỗi phải trồng lại, có thể  khích lệ giúp tiểu điền cao su trồng lại vườn già cỗi hay nới rộng diện tích với các cao su giống mới cao năng, đa dụng hơn . Một khó khăn khác có thể giới hạn phát triễn  cao su thiên nhiên tương lai là chế biến mũ cạo thành sản phẩm xuất khẩu tương đối  khá ô nhiễm, nên Việt Nam cần phối hợp với Thái Lan , Mã Lai Á ….tìm cho được các giải pháp sạch hay bớt ô nhiễm  . 
           Hột điều cũng là một xuất khẩu mới gần đây và quan trọng ở tỉnh nhà. Trồng được trên đất xám bạc màu, một lọai đất diện tích lớn ở Đồng Nai. Năm 2000, Việt Nam chỉ mới sản xuất 19 000 tấn . Năm 2007 đã xản xuất 157 000 tấn, năm 2010 lên đến 196000 tấn , gíá trị xuất khẩu 1. 14 tỉ đô la. Vấn đề cho ngành trồng hột điều là phải tìm cách tăng gia 3- 4 lần năng xuất,  tháp các tinh dòng cao năng trên các vườn tiểu điền trồng giống sa cạ không tuyễn chọn , năng xuất rất thấp kém. Cố gắng chấm dứt nhập khẩu hột nguyên liệu chưa chế biến từ Phi Châu (Côte D’ Ivoire hiện chiếm 50% tô/ng số, trước đây là Tanzania, Mozambique … , và từ Cam Bốt ( trước đây là từ Ấn Độ ) càng sớm càng hay.
         Cuối vùng là tiêu ( hồ tiêu ) .  Năm 2007, tỉnh Đồng Nai cũng đứng thứ tư sản xuất tiêu , khỏang 5000 ha , sau Bình Phước 13 000 ha, Đắc Lắc 9000 ha, Bà Rịa – Vũng Tàu 76000 ha. Mức xuất khẩu tiêu tòan quốc năm đó là 82 000 tấn.  Năm 2010 đạt 110 000 tấn, trị giá trên 390 triệu đô la.  Tiêu Đồng Nai tập trung ở vùng đồi núi  huyện Xuân Lộc, trên cả đất đỏ lẫn đất xám bạc màu.  Áp dụng đúng kỷ thuật, tiểu điền thu họach trên đất đỏ đến 7- 8 tấn tiêu khô / ha. Trên đất xám bạc màu , năng xuất kém hơn ; nhưng đa số nông dân Đồng Nai trồng tiêu xen kẻ với các vưòn hột điều, thu lợi gấp ba bốn lần thu họach hột điều riêng rẽ, vì đầu năm 2011, giá tiêu gấp ba lần giá hột điều, và năng xuất tương đương trên đất xám bạc màu. Vấn đề là thiếu nhân công thu họach tiêu, vì lao động đã đi làm tại các công ty, xí nghiệp; không thu họach kịp để tiêu quá già, trụ tiêu sẽ suy và giảm năng xuất vụ tới.         
       
             II – Phát triễn công nghệ 
        
            Tăng trưởng công nghệ ở tam giác đất hứa đứng hạng nhất nước nhà .
            
          Đồng Nai thuộc vùng trọng điểm phát triễn phía Nam gồm TP HCM – Sài Gòn , tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hình thành một tam gíác đất hứa - tăng trưởng ( không gồm Bình Dương ), tiến triễn nhanh mạnh, tạo sức hút, lực kéo đối với các lảnh thổ xung quanh, chuyễn đổi kinh tế theo “ hướng rồng bay”, hội nhập vào nền kinh tế Đông Nam Á và quốc tế .       
           GDP của Việt Nam mỗi đầu người, năm 1990, khỏang trên 200 đô la Mỹ đôi chút, chỉ mới tương đương với Hàn Quốc cuối thập niên 1960 ( lúc này GDP mỗi đầu người Hàn Quốc còn bị dư hưởng chiến tranh Triều Tiên thua kém Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam được an bình 5 năm, không chiến tranh ). Nhưng cơ cấu GDP của tam giác tăng trưởng đất hứa, lúc này đã tương đương với cơ cấu GDP Hàn Quốc nữa cuối thập niên 1980 , thời điểm Hàn Quốc đang cất cánh kinh tế– take off , “hóa rồng” ở Đông Nam Á( gồm 4 nước là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore ; rồng là tên gọi các nước hay lảnh thổ mới đang công nghiệp hóa NIC – Newly Industrializing Countries) . Nếu kể riêng rẽ thì Saigon -TP HCM năm 1995 , đã có cơ cấu kinh tế tương tự của những nước có thu nhập cao trên thế giới ( nông lâm ngư nghiệp : 3% , công nghiệp và xây dựng: 42%, dịch vụ 55% ). Còn Đồng Nai có cơ cấu kinh tế của các nước có thu nhập trung bình ( 12 % , 37 % và 51 % ) . Cơ cấu kinh tế Đồng Nai, năm 2009, dù ở thời điểm Việt Nam phát triễn suy thóai như mọi nước trong vùng, vẫn ở mức tăng trưởng 9 % và đạt tỉ lệ 10% ở nông lâm ngư nghiệp, 40% ở công nghiệp – xây dựng, 30% ở dịch vụ . Chín tháng đầu năm 2009 đã tạo ra hơn 85 000 công ăn việc làm, đưa mức lợi tức trung bình mỗi đầu người lên đến 1403 đô la Mỹ, hạ tỉ số gia đình nghèo khổ xuống mức 6.9 %; chiếm 4 % GDP tòan quốc và đứng hạng 5 đóng góp vào ngân sách quốc gia.                     
            Thập niên 1990, Việt Nam thiết lập những vùng hành chánh đặc biệt để thu hút đầu tư ngọai quốc trực tíếp, khích lệ xuất khẩu, khuyến khích đầu tư đồng đều hơn khắp xứ sở. Đó là những công viên hay vùng công nghệ-industrial parks, industrial zones, có anh giới địa lý định sẳn,   đúng theo các luật lệ điều hành chánh quyền ban hành và thường chứa nhiều đặc ân dành cho đầu tư . Gồm 4 lọai : * vùng công nghệ- Industrial zones là những khu vực đặc thù chuyên chế tạo – manufacturing   sản phẩm công nghệ và cung cấp dịch vụ cho công nghệ chế tạo; *vùng chế xuất - Export Processing zones chuyên môn sản xuất những hàng hóa xuất khẩu ; * mới gần đây là vùng công nghệ cao kỷ tri thức- High Tech zones  chuyên môn làm khảo cứu, phát triễn và ứng dụng cao kỷ: * vùng Kinh tế- Economic  zones . Khích lệ là miễn thuế một thời gian – tax holidays, giảm bớt thuế lợi tức tổ hợp ,gác lại thuế quan và thuế đánh trên đầu vào sản xuất và nhà máy và những tỉ xuất ưu đải tiền thuê đất đai.
         Chắc chắn là các vùng này đã đóng một vai trò quan trọng phát triễn sản xuất địa phương và thu hút đầu tư ngọai quốc. Đến cuối năm 2008, Việt Nam đã thiết lập 219 vùng đặc biệt này, thu hút trên 16 tỉ đô la dự án tư bản đầu tư trực tiếp. Công nghệ điển hình là tơ sợi, áo quần, điện tử, nhựa dẽo – plastics và chế biến nông phẩm. Riêng trong năm 2008, 49 vùng công nghệ mới đã được thành lập ở vùng phát triễn trọng điểm kinh tế phía Nam ( gồm thêm tỉnh Bình Dương , ngòai tam giác tăng trưởng) , tổng diện tích là 15 675 ha và 8 vùng cũ đang được nới rộng, tăng thêm 2 810 ha. Ở tam giác tăng trưởng “ đất hứa” ,  tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đầu tòan quốc, thu hút 4.5 tỉ đô la đầu tư ngọai quốc năm 2008 và tỉnh Đồng Nai thu hút 1.01 tỉ. Năm 2000, tỉnh Đồng Nai  đã xây dựng 14 khu công nghệ .
        
         Thúc đẩy tăng trưởng nhờ thiết lập, hình thành các công viên vùng công nghệ, khu chế xuất…
         
          Sau đây là tóm tắt tình hình 8 khu- công viên công nghệ điển hình tỉnh Đồng Nai, tính đến tháng 5 năm 2011:  
           
              1- Vùng công nghệ I Biên Hòa,  ở phường An Bình thị xã Biên Hòa, cách thành phố Sài Gòn  25 km về phía Đông Bắc, cách thị xã Vũng Tàu 90km. Diện tích  335 ha, trong đó diện tích cho thuê là 231 ha, đã cho thuê hết 100%. Hạ tầng cơ sở đã làm xong tất cả đường xá giao thông nội khu, mọi mương hào thóat thủy, có một trạm biến điện 125 MVA từ mạng lưới điện quốc gia, nhà máy nước Thủ Đức cung cấp 25 000 m3 một ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy làm sạch phế thải chất lỏng và mọi cơ sở công cọng dịch vụ hòan tất. Hiện có 90 dự án, tư bản đăng ký lên trên 326 triệu đô la Mỹ. Đầu tư ở các lảnh vực: chế biến thực phẩm, hóa chất,vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử, giấy và dịch vụ.
              2- Vùng công nghệ II Biên Hòa, ở phường Long Bình , thị xã Biên Hòa, đối diện vùng công nghệ I Biên Hòa. Diện tích 365 ha, trong đó có 261 đất cho thuê, đã cho thuê hết 100 %. Hạ tầng cơ sở cũng đã làm xong mọi đường xá giao thông nội khu và mọi mương hào thóat thủy, có một trạm biến điện 63 MVA sẽ nâng cấp lên 80 MVA từ mạng lưới điện quốc gia, nhà máy nước Biên Hòa cung cấp 15 000 m3 một ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu phế thải chất lỏng cho tòan vùng công xuất ở giai đọan1 là 4 000 m3 /ngày . Hiện có 126 dự án, tổng cọng tư bản đăng ký là 1396 triệu đô la Mỹ. Lảnh vực đầu tư gồm: sản phẩm, nông phẩm và chế biến thực phẩm, áo quần và tơ sợi, châu báu nữ trang, hàng mỹ nghệ, giày dép, đồ ăn mặc thể thao, gói ghém cao phẩm, các sản phẩm công nghệ từ cao su thiên nhiên, sành sứ, gương, xưởng ráp hàng điện tử, đồ phụ tùng cho computer, các bộ phận điện tử, chế tạo mọi lọai dây điện, mọi vật dụng điện, vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến gỗ điêu khắc, chạm trỗ đồ gỗ, các phụ tùng xe hơi và xe gắn máy, xưởng ráp xe hơi và xe gắn máy, các sản phẩm ngành dược các dụng cụ y khoa và thuốc ta từ cây cỏ, hột PVC và hàng hóa chất nhựa dẻo, các bộ phận cơ khí và kim lọai máy móc và trang bị công nghệ.                  
            3 - Vùng công nghệ Gò Dầu, ở làng Phước Thái, huyện Long Thành. Diện tích 136,7 ha, diện tích cho thuê 116.3 ha ( không kể 120 ha công Ty Vedan đã thuê ), chỉ mới cho thuê đất 85.08 %. Đường xá và mương hào hạ tầng cơ sở đã hòan tất, cũng như trạm biến điện 40MVA từ mạng điện quốc gia, đã xây cất nhà máy nước dung tích 10 000 m3 / ngày, thông tin viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, đã xây cất nhà máy trị liệu chất lỏng phế thải, dung tích 1000 m3 / ngày. Hiện có 14 dự án, tư bản đăng ký là 370 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm vật liệu xây dựng,bộ phận cơ khí, chế tạo và sửa chửa  các máy móc – trang bị xe cộ, tơ sợi,áo quần, nhuộm, các đồ điện và điện tử, các hóa chất công nghệ và nông nghiệp, thực phẩm, các chế biến thực phẩm và nông phẩm, và công nghệ khác không làm ô nhiễm nặng nề.      
           4- Vùng công nghệ Amata, ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện tích 410 ha,129 ha cho giai đọan 1. Diện tích đất cho thuê là 100 ha và đã cho thuê 90 ha. Tiền thuê đất thay đổi tùy loại công nghệ ; giảm bớt cho công nghệ sử dụng diện tích lớn và hay cao kỷ .Về hạ tầng cơ sở đã hòan tất mọi đường xá nội vùng và mương hào thóat thủy; đã có trạm biến thế 40 MVA, đang xây dựng nhà máy điện cho tòan vùng Amata công xuất 120 MVA ;  nhà máy nước dung tích 30 000 m3 / ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện đến khắp nước và ngọai quốc. Có một nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng dung tích 1000 m3/ ngày. Hiện có 46 dự án, tư bản đăng ký lên đến 320 triệu đô la . Lảnh vực đầu tư gồm computer và các bộ phận, thực phẩm và chế biến thực phẩm, chế tạo hay ráp các sản phẩm điện , cơ khí và điện tử, sản phẩm da, áo quần, len, giày dép, nữ trang châu báu, hàng mỹ phẩm, phấn son, dụng cụ thể thao , sản phẩm plastics, gói ghém, các sản phẩm công nghệ từ cao su thiên nhiên, sành sứ, guơng kiếng, thép xây dựng, công ten nơ thép, đồ phụ tùng xe hơi, chế tạo xe hơi, hóa chất cho bê tông, thực phẩm và chế biến thực phẩm, tơ sợi, nhà máy xay bột mì, mì ăn liền, các hàng tiêu thụ khác, tu bổ máy kéo ( máy cày ), sơn cao cấp mọi lọai, các chất dính công nghệ, chai đựng khí dầu, khăn vệ sinh, khăn bàn, lưới cá, hóa chất : sợi PE, hột plastics, bột màu công nghệ, dược phẩm, dược liệu cây cỏ, thuốc bảo vệ mùa màng, các thành phần bê tông ép trước, bê tông tươi.  
             5- Vùng công nghệ Loteco, cũng ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện tích giai đọan 1 là 100 ha, kể cả 40 ha dành cho khu chế xuất tương lai. Đất cho thuê là 72 ha, đã cho thuê 72 ha ( 49.01 % ). Về hạ tầng cơ sở đã hòan tất mọi đường xá nội vùng, mương hào thóat thủy; đã có nhà máy điện công xuất 3.2 MW, 6MW từ mạng lưới quốc gia và sẽ thiết bị thêm cho đến 40 MW; được cung cấp nước 6000 m3 / ngày, thông tin viễn thông thuận lợi khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu chất thải lỏng dung tích 1500 m3 / ngày. Hiện có 22 dự án, tư bản đầu tư đăng ký lên đến 151 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: thiết bị điện tử computers và ngọai vi, chế tạo và ráp các sản phẩm cơ khí, điện và điện tử, dây, cáp, chế tạo các phụ tùng xe hơi và các phương tiện chuyên chở khác, chế tạo xe mô tô và phụ tùng công nghệ tơ sợi và áo quần, đồ da, giày dép, sản xuất và chế biến thực phẩm, dụng cụ quang học, đá qúi, mỹ nghệ, phấn sáp, dụng cụ thể thao và đồ chơi trẻ em, dụng cụ y khoa, sản phẩm plastics và kim lọai , dụng cụ gia dụng, đồ sành sứ- gương kiếng và pha lê, dụng cụ cơ khí chính xác, thép xây dựng, ống thép, vật liệu xây dựng guơng kiếng xây dựng và khắc chạm nổi – relief glass, sản phẩm cho tàu đi biển , đồ gói ghém mọi kiểu, dụng cụ thông tin, kỷ thuật sinh học, thuốc men cho người và cho súc vật, công nghệ giấy ( ngọai trừ bột giấy ) chế biến gỗ nội địa hay gỗ nhập khẩu, kỷ thuật in, dụng cụ máy móc và sản phẩm cho các nhà máy trị liệu phế thải công nghệ, hóa chất cho các doanh nghiệp sản xuất dùng ở các vùng chế xuất hay vùng công nghệ khác.     
             6- Vùng công nghệ Hố Nai, ở làng Hố Nai và Bắc Sơn, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Diện tích 523 ha , 230 ha cho giai đọan 1. Đất cho thuê 145.94 ha, đã cho thuê 83.65 ha ( 57.32 % ). Về hạ tầng cơ sở đã có điện đến 150 KVA, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc. Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ  hệ thống điện, nước, viễn thông, thóat thủy, trị liệu chất phế thải. Hiện đã có 66 dự án, tổng số tư bản đăng ký  trên 219 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: công nghệ may mặc, ráp các thành phần điện và điện tử, ráp xe hơi và xe mô tô, xe gắn máy, công nghệ mùi vị, hóa chất phấn sáp, vật liệu xây dựng, dụng cụ trang trí nội gia, đồ gỗ, dụng cụ điện gia thất, dịch vụ ngân hàng, bưu điện, nhà kho và xây cất nhà máy cho thuê. 
             7- Vùng công nghệ Sông Mây, ở làng Bắc Sơn, huyện Thống Nhất. Diện tích 427 ha, dành 227 ha cho đợt đầu. Đất cho thuê 158 ha , đã cho thuê 52.88 ha ( 33.47% ). Về hạ tầng cơ sở đã có thông tin và viễn thông thuận tiện đi khắp nước và ra ngọai quốc. Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thông tin, thóat thủy, trị liệu phế thải. Hiện đã có 19 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 190 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: chế tạo cơ khí, ráp sản phẩm điện tử, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đồ da, áo quần.
           8-   Vùng công nghệ Nhơn Trạch 1 ( còn có tên là Tuy Hạ A ), ở làng Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Diện tích 430 ha. Đất cho thuê 323 ha. Đã cho thuê 213.72 ha ( 66. 16 % ). Về hạ tầng cơ sở, đã hòan tất đường xá nội dịa và mương hào; thông tin và viễn thông thuận tiện đi khắp nước và ra ngọai quốc, đã có một trạm biến điện phụ 110KV/220KV công xuất 56 MVA, có một nhà máy bơm nước ngầm cung cấp 4500 m3 / ngày, sẽ nâng cấp cung cấp 15 000 m3 / ngày, đã có nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng, dung tích 4000 m3 /ngày. Hiện có 47 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 449 triệu đô la , trong số này 17 dự án đã họat động, 5 đang xây cất và 10 đang sửa soạn. Lảnh vực đầu tư gồm: vật liệu xây cất, cơ khí, dụng cụ cơ khí chính xác sản xuất và sửa chửa máy móc xe cộ, dụng cụ , tơ sợi , áo quần , nhuộm, các đồ điện và điện tử, hóa chất công nghệ, nông nghiệp và thực phẩm chế biến thực phẩm và sản phẩm nông nghiệp, các công nghệ khác không gây ô nhiễm nặng nề.
 
         Tính đến tháng 30 tháng 8 năm 2010 , theo Bồ Ngọc Thụ , giám đốc Qui họach và Đầu tư ở tỉnh Đồng Nai , trả lời các phỏng vấn của các phóng viên Tin Tức Kinh tế Việt Nam – Việt Nam Economic News, tỉnh Đồng Nai đã có   981 dự án ngọai quốc đầu tư trực tiếp ( FDI ), tổng số tư bản đăng ký là 18.37 tỉ đô la Mỹ . Khỏang 89.85 tỉ trong thời gian 2006 – 2010. Cho đến nay , có 32 quốc gia hay lảnh thổ đầu tư vào Đồng Nai,   theo thứ tự dẫn đầu là Đài Loan , Hàn Quốc, Nhật Bổn, các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, hiệp Hội Âu Châu và Hoa Kỳ . Âu Châu và Hoa Kỳ đã Đầu tư Trực tiếp – FDI hơn 11. 4 tỉ thời gian 2006- 2010, cao hơn qui họach dự liệu chỉ 5 tỉ mà thôi. Trước năm 2006, đa số các dự án FDI đầu tư vào khu vực công nghệ. Thế nhưng sau 2006, các dự án dịch vụ và cao kỷ đã gia tăng, đúng theo sách lược ưu tiên đầu tư vào tỉnh nhà.
           Các nước Đông Nam Á đặc biệt đầu tư vào 113 dự án ở tỉnh Đồng Nai, nghĩa là 11.5% tổng số dự án ở tỉnh nhà, tư bản đăng ký 3. 4 tỉ đô la , chiếm 18.13 % tổng số. Cả thảy có 99 doanh nghiệp ASEAN làm nghiệp vụ trong tỉnh, tổng số đầu tư trị giá 1.7 tỉ (   chiếm 51.7 % tổng số tư bản đăng ký )  và sử dụng 26 500 lao động. Doanh nghiệp tên tuổi là CP Việtnam Co.Ltd, Amata Vietnam Joint stock Company, TPC Vina Plastic and Chemical Co. của Thái Lan, Hualon Vietnam, Betjara –D2D của Mã Lai Á, Haiyatt Vietnam Co . Ltd của Singapore, San Miguel của Phi luật Tân, UICViệtnam của Inđônêxia, và Roam Riva Chiung của Brunei.  Các hảng ASEAN thích nghi mau lẹ nhất hiểu biết các thủ tục doanh nghiệp tại Viêt Nam ,cho nên thành công ở tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đa phần có quy mô nhỏ, định hướng xuất khẩu và tỉ xuất lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn và do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của chuổi giá trị sản phẩm Diều tra cho biết các doanh nghiệp FDI chỉ tiêu thụ một lượng hàng hóa nhỏ và dịch vụ trung gian nội địa, có đến 54 %    nguyên vật liệu được FDI nhập khẩu do vật hiệu ứng năng lực công nghệ và kỷ năng quản lý bị hạn chế , không mấy kích thích sản xuất trong nước . Do đó chiến lược phát triễn kinh tế nước nhà, cũng như riêng tỉnh Đồng Nai, dựa nhiều vào FDI sẽ không bền vững. Cần sửa đổi theo hướng hội nhập tốt, nghĩa là thu hút FDI chất lượng cao để phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước ( FCI ), kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, sử dụng thông minh hơn các nguồn lực sẳn có ….
        
         Những tiến triễn ưu,  khuyết điểm vài công nghệ then chốt, còn ít lạm bàn
       
         Chúng tôi đã lạm bàn khá nhiều về phát triễn công nghệ nguyên liệu nông lâm ngư và công nghệ tơ sợi may mặc nước nhà ở các làm bàn về một số tỉnh, trong 63 tỉnh nước nhà. Nay chỉ lạm bàn thêm về vài lĩnh vực công nghệ liên quan đến tỉnh Đồng Nai, ít khi được nói đến .
             * Công nghệ cơ khí mà nhản hiệu điển hình là VIKINO, thành lập năm 1967,  thuộc vùng công nghệ I Biên Hòa, trước năm 1975, chủ yếu ráp các bộ phận máy cày nhỏ kiểu Kubota, Nhật Bổn, nhưng đã chuyễn đổi mạnh cơ cấu từ 1975 đến nay để trở thành một công ty cơ khí máy móc  chế tạo nông cơ ( nông cụ cơ giới) hạng nhất nước nhà . Đặc biệt là sản xuất các lọai động cơ diesel từ 6 đến 30 mã lực theo kỷ thuật tân tiến nhất của Nhật và hiện đang cố gắng họa kiểu, phát huy  R&D, sản xuất, giao hàng, sửa chửa hậu cung cấp, một động cơ hiệu năng hơn, sạch phát thải hơn, không những cho Việt Nam và khắp các nước ASEAN . Việt Nam hiện có 3100 doanh nghiệp công nghệ cơ khí - mechanical engineering industry, quốc doanh, tư doanh và công ty FDI. Chỉ gần phân nữa các công ty này là các công ty lớn chế tạo, ráp máy móc và thiết bị. Tư bản quốc doanh chiếm 380 triệu đô la Mỹ; tư bản các công ty FDI là 2.1 tỉ đô la. Công ty FDI đầu tư chủ yếu về ráp xe hơi, xê mô tô, xe gắn máy và các đồ gia dụng. Ưu tiên phát triễn dành cho 8 khu vực sau đây: các động cơ sản xuất tòan diện thiết bị- giàn sản xuất; máy móc cho sản phẩm nông nghiệp, dụng cụ làm máy móc, máy móc xây dựng, công nghệ đóng tàu, thiết bị điện và điện tử công nghệ xe hơi và công nghệ chuyên chở. Các công ty Việt Nam đã bước nhanh hướng về khả năng chế tạo các sản phẩm cơ khí. Trong thời gian 2001- 2007, mức tăng trưởng trung bình   là 22 % và đã thõa mãn 40 % yêu cầu nội địa. Sản xuất mỗi năm 150 – 185 000 động cơ diesel, 100- 135 000 motor điện, 33- 50 000 máy biến điện, 8000 dụng cụ máy móc … Đồng thời các công ty công nghệ cơ khí Việt Nam luôn luôn góp sức ở những dự án công nghệ quan trọng như làm nhà máy xi măng , các nhà máy nhiệt điện hay thủy điện, nhà máy lọc dầu Dung Quất, cơ xưởng đóng tàu thủy và nhiều công nghệ khác. Nhưng ngành công nghệ này chỉ cạnh tranh được với những công tác phần lớn đơn giản như hàn xì , làm các cơ cấu khung hay không phải là tiêu chuẩn thép. Ngành công nghệ xe hơi và đóng tàu thủy là những thí dụ tốt đẹp cho khu vực này. Các chuyên gia nhìn thấy yếu kém ở mọi mức độ khác về  đóng góp vào phát triễn của công nghệ địa phương ở những khu vực như   đúc, rèn, tạo ra bán sản phẩm lớn,   trị liệu bằng nhiệt , trị liệu mặt bằng và chế tạo các sản phẩm phẩm giá tiêu chuẩn cao . Những thừa tố các công ty công nghệ cơ khí cần khắc phục hầu cạnh tranh quốc tế được gồm những nhược điểm sau đây: nhiều máy móc trang bị với những kỷ thuật rất xưa cũ, thiếu thông tin và khả năng cọng táctrong nước, thiếu tin tưởng vào phẩm giá các sản xuất trong nước, các công ty chuyễn về hướng kinh tế thị trường quá chậm chạp không đủ khả năng cạnh tranh trên một thị trường tòan cầu canh tranh nhau rất lớn, thiếu tư bản đầu tư vì các công ty thường không muốn lảnh trách nhiệm làm đầu tư tư bản lớn hơn, thiếu thông tin thị trường quốc tế. Nhập khẩu máy móc vào Việt Nam tăng từ 748 triệu đô la năm 1986 lên đến 21.5 tỉ năm 2008. Máy móc Việt Nam xuất khẩu tăng từ 1.86 tỉ năm 2008, 2.003 tỉ năm 2009 và 2. 4 tỉ ( ? ) năm 2010. Chứng tỏ dù sao đi nữa công nghệ cũng có nhiều tiến bộ .
            * công nghệ điện tử , mà điển hình là công ty Fujitsu Computer Products of Việtnam, Inc., ở vùng công nghệ II Biên Hòa, có nhà máy PCBA làm chip ( vi xủ lý ) cao tốc, rất chính xác và họat động không ngừng. Công nghệ điện tử đã xuất hiện ở Việt Nam kể từ thập niên 1975, khi hảng Sanyo mở nhà máy ti vi và rađiô, nay là công ty Vietronics Biên Hòa dưới hình thức một thỏa hiệp môn bài- licence agreement. Nhưng sau “ Đổi Mới” ( 1986 ) công nghệ mới thật   tăng trưởng có ý nghĩa. Vào thập niên 1990, một lọat công ty liên doanh với các công ty ngọai quốc được thiết lập. Nhũng năm gần đây, càng ngày càng nhiều công ty ngọai quốc đã thiết lập các chi nhánh ở Việt Nam.   Tỉ như Canon Vietnam Co. Ltd, Fujitsu Viêtnam Ltd hay Intel Product Vietnam Co. Ltd. Cũng như ngành công nghệ cơ khí, ngành công nghệ điện tử có lập ra một kế họach phát triễn tòan bộ đến năm 2010 và các viễn cảnh dự tính đến năm 2020 theo quyết địn chánh phủ ban hành ngày 28 tháng 5 năm 2007  số 875/2007/QĐ-TTg. Các mục tiêu là: sản xuất đồ điện tử các địa phương trong nước phải đạt trị giá 4,6 tỉ đô la Mỹ, xuất khẩu đồ điện tử lên đến 3- 5 tỉ đô la, tạo ra 300 000 công ăn việc làm, mức tăng trưởng hành năm là 20- 30% . Thật tế , theo Business Monitor International , sản xuất đồ điện tử ở Việt Nam là 1.770 tỉ năm 2006, 2.2 tỉ năm 2007, có thể là 4.451 tỉ năm 2010 và 5,510 tỉ năm 2011, có thể đến 10. 722 tỉ năm 2014. Theo các báo cáo Bộ Công Nghệ và Thương Mãi Việt Nam, năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu 2. 76 tỉ đô la ,tăng 4, 8 % so với năm 2008; thị trường xuất khẩu chánh là Hoa Kỳ , Nhật , Thái Lan và Trung Quốc. Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu 3.95 tỉ đô la, tăng 6.5 %; các công ty FDI ngọai quốc là các nhà nhập khẩu chính yếu, trị giá lên đến 2, 55 tỉ. Các đồ điện tử xuất nhập là các máy computers, các linh kiện điện tử và các bộ phận. Chiếu theo các chuyên viên quốc tế, ngành điện tử Việt Nam sử dụng những kỷ thuật và thiết bị lạc hậu. Việt Nam vẫn còn ở giai đọan 1 ( nghĩa là nhập khẩucác bộ phận và ráp theo yêu cầu nội địa ), trong khi   các quốc gia khác trong vùng ( Thái Lan, Singapore, Mã Lai Á, Inđônêxia và Phi Luật Tân ) đã đến giai đọan 3 ( R&D, cao kỷ - high tech hướng về xất khẩu ). Khả năng công nghệ điện tử nước nhà chỉ chủ yếu giới hạn vào  lắp ráp, thiếu hẳn một khu vực hổ trợ đã phát triễn cung cấp cho nhà máy lắp ráp những thành phần, bộ phận cần thiết. Thế cho nên các công ty địa phương khó lòng cạnh tranh thắng lợi các nhãn hiệu ngọai quốc. Thị trường linh kiện điện tử ước lượng sẽ tăng 13% mỗi năm cho đến năm 2014 , các khu vực chủ yếu là các đồ cầm tay – handsets giá rẽ, các computer sổ tay – note book computers và các máy ti vi LCD. Tuy nhiên rất nhiều công ty các nước tiên tiến đã phát triễn, càng ngày càng xem Việt Nam như thể là một thay thế nhiều sức thuyết phục so với Trung Quốc . Các công ty Việt Nam thường thiếu hiểu biết – know how , kỷ thuật và tư bản so với các công ty họat động mạnh mẽ quốc tế Âu Châu, Hoa Kỳ…  Mặt khác, phí tổn lao động ở các công ty Âu – Mỹ rất cao, nên khó lòng cạnh tranh ở thị trường tòan cầu. Cơ cấu phí tổn các công ty Việt Nam đầy sức hút dẫn, không thua kém Trung Quốc gì hết. Ưu diểm của Việt Nam ở rất nhiều vị thế , vì Việt Nam cung ứng lao động phẩm giá cao hơn. Việt Nam cũng bảo vệ tốt tác quyền trí thức hơn là tại các quốc gia khác trong vùng.
 
            Công nghệ hạ tầng cơ sở ( công nghệ dịch vụ )                                                        
                                              
a-      Xây  đường hàng không và đường bộ cao tốc
          
          Về hàng không dân sự, từ năm 1998 Cơ Quan hàng không dân sự được chia ra làm 3 công ty công cộng để phụ trách xây dựng các công tác quản trị tổng quát và xây cất các phi cảng: Cơ quan Phi Cảng miền Bắc ở Hà Nội . Cơ quan Phi Cảng miền Trung ở Đà Nẳng và Cơ quan Phi cảng ở Thành Phố HCM- Sài Gòn. Việt Nam hiện có 23 phi cảng, 6 ở miền Bắc, 8 ở miền Trung và 9 ở miền Nam. Số phi cảng quốc tế đã được dần dần tăng lên 9 và nâng cấp   mức dịch vụ trong nước và ngòai nước. Các phi cảng quan trọng nhất là phi trường quốc tế Nội Bài ở Hà Nội, phi trường quốc tế   Tân Sơn Nhất TP HCM , phi trường quốc tế   Đã Nẳng , phi trường quốc tế Cam Ranh ỏ hai tỉnh Khánh Hòa – Ninh Thuận và phi trường Cát Bi ở TP Hải Phòng. Còn 4 phi trường xếp hạng quốc tế khác là Cần Thơ , Chu Lai, Đà Lạt và Huế, nhưng chúng ít quan trọng hơn vì đườ ng bay ngắn hơn. Cơ cấu hạ tầng các phi cảng chưa phát triễn thích nghi, không đủ khả năng thỏa mãn mức hành khách và hàng hóa tăng mau lẹ trong những năm tới. Hiện di chuyễn hành khách hàng không là 33 triệu, dự trù sẽ tăng lên đến 82 triệu( ? ) năm 2020. Năm 2010, Việt Nam đã được Nhật chấp thuận tài trợ xây cất phi cảng quốc tế và nội vùng Long Thành, dự án thiết lập  từ năm 2006, thay cho phi cảng Tân Sơn Nhất đã quá tải. Khi hòan tất, phi cảng Long Thành có khả năng chuyên chở tối đa mỗi năm 80 – 100 triệu hành khách và 5 triệu tấn hàng hóa tổng cộng. Phi cảng rộng 6 000 ha và sẽ có 4 đường bay dài 4000 m x 60m. Giai đọan 1 cần có đầu tư khoảng 4 tỉ đô, gồm hòan tất các ga- terminals và 2 đường bay song song. Hầu đạt khả năng chuyễn dịch đến 30 triệu hành khách vào năm 2015 . Hai đường bay sẽ giúp cất cánh hay hạ cánh cùng lúc, ngay cả các phi cơ siêu jumbo A 380 và Boeing 747  . 
        Về đường bộ, ngòai xa lộ số 51 đã hòan tất, chánh quyền đang cố sức thực hiện hai xa lộ cao tốc – expressway để dễ dãi chuyễn dịch hà khách tới và di khỏi phi cảng quốc tế Long Thành. Đó là xa lộ cao tốc TP Hồ chí Minh - Long Thành - Dầu Giây  ( Dầu Giây là mối nối trước đây của quốc lộ 1 với Quốc lộ 20 đường lên Lâm Đồng Tây Nguyên- Bảo Lộc – Đà Lạt) có 10 lằn , nối Long Thành với TP HCM. Xa lộ cao tốc này   dài 55 km tổng phí   932 triệu đô la đà được JICA- ODA và ADB- OCR cho vay thực hiện.  Xa lộ cao tốc thứ hai Biên Hòa – Vũng Tàu , có 8 lằn sẽ nối thị xã Biên Hòa với thị xã Vũng Tàu.
 
           b- Công nghệ Thông Tin ( IT )
 
           Như đã kể trên , tỉnh Đồng Nai đã góp phần xây dựng công nghệ thông tin Việt Nam với Fujitsu , Canon v.v…
Công nghệ Thông Tin  là một trong bốn công nghệ trọng điểm ( cơ khí, điện tử -thôngtin, hóa chất- nhựa cao su, tinh chế biến lương thực thực phẩm ) Việt Nam đang cố tâm phát triễn, nhưng vẫn còn phôi thai lắm. Ngành này hiện sử dụng 200 000 nhân viên hoạt động phần cứng – hard ware, phần mềm – software và doanh vụ có chứa kỷ thuật số - digital content. Trong số này 15 000 người được xem là chuyên môn xuất sắc. Việt Nam có 500 hảng phần mềm tích cực, gồm luôn 19 công ty liên doanh – joint ventures , sử dụng tổng cọng 57 000 nhân viên. Khỏang 300 công ty   liên hệ đến nguồn ngọai – outsourcing. Đa số công ty kích thước nhỏ với 10- 50 nhân viên cung cấp các ứng dụng căn bản trang web, tìm giải pháp đặc thù cho khách hàng và làm cố vấn IT ( công nghệ thông tin ). 20 công ty đầu sổ có 100- 500 nhân viên.
           Khỏang 40 công ty đã có các văn bằng phẩm giá quốc tế tỉ như ISO 9001, ISO 27001 và chừng 20 công ty đã có văn bằng Kiểu Mẩu Khả năng Trưởng Thành – Capability Maturity Model ( CMM ) mức 3, 4 hay 5. Các hảng dẫn đạo nguồn ngọai là FPT Software , CSC, TMA, Lạc Việt , CMC,Tinh Vân. Khách hàng chánh là từ Nhật Bổn, Hoa Kỳ , Úc Châu và Hiệp hội Âu Châu – EU. Năm 2000, tổng số lợi tức cho công nghệ phần mềm chỉ mới đạt 50 triệu đô la, nhưng năm 2009 đã lên đến 880 triệu đô la, với một tĩ xuất tăng trưởng vững chắc khỏang 20-25 % một năm.
       Tổng số lợi tức công nghệ thông tin IT năm 2009 là 6. 26 tỉ đô la Mỹ, tăng 20 % so với năm 2008. Phần cứng góp phần lớn nhất về tăng gia này, chiếm 75 %. Công nghệ phần cứng Việt Nam sử dụng 110 000 nhân viên năm 2008, đa số họat động chánh ở ngành điện tử và ráp máy computer. Các công ty quốc tế công nghệ thông tin  ICT tỉ như Intel, IBM, Cisco Nortel, Compaq, Hewlett- Packard, Sony, Fujitsu, Hitachi, Canon, Daiwa, Fuji, NTT, Panasonic, NEC, Foxcom, Compal, Hon Hai, đã có nhà máy ở Việt Nam. Hiện Việt Nam có trên 30 nhà máy ráp computers .
         Việt Nam nhắm mục đích trở thành một quốc gia công nghệ thông tin mạnh mẽ vào năm 2015, đặt mục tiêu  tổng lợi tức ngành chiếm 17- 20% GDP. 53 triệu đô la sẽ được chi tiêu đạo tào nguồn nhân lực phát triễn IT nước nhà. Việt Nam nhắm đào tạo 1 triệu kỷ sư IT và 23 công viên cao kỷ vào năm 2020. Hiện đã có 10 công viên cao kỷ họat động,  một số ở tỉnh Đồng Nai như đã kể trên.
 
                    Vì lạm bàn phát triễn cho tỉnh Đồng Nai đã quá dài và vì ở  những lảnh vực khác như công nghệ viễn thông(  đạt tiến bộ đáng kinh ngạc những năm gần đây; năm 2009 sau 2.1 tỉ đô la đầu tư vào hạ tầng cơ sở 3G, dịch vụ cần thiết cho internet di động, gọi viđêô – viodeo callTi vi di động- mobile TV đã có 13 triệu người thuê – subcribers  đăng ký, nhưng IBM cho biết thật sự chỉ mới có 100 000 nguời thuê mướn … ), công nghệ xây cất và bất động sản, thuơng xá  tân tiến, khu gia cư cận đại, công nghệ Âu dược và Nam dược, hóa chất, dụng cụ y khoa, ngân hàng, bảo hiểm v.v … không chỉ tỉnh Đồng Nai mới đặc sắc, trội hẳn lên … nên chúng tôi sẽ có cơ hội lạm bàn những kỳ tới . Ai muốn biết thêm hiện trạng, xin tham khảo tài liệu 2010 Report on ViêtNam của các Cố Vấn Kinh tế và Thương Mãi Hiệp Hội Âu Châu, trình bày tháng 6 năm 2010 ở Hà Nội.  
 
                               ( Irvine ngày 9 tháng 6 năm 2011 )
 
  Số lượt bạn đọc kể từ 01/9/2009 791821 visitors (2092248 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free